Vai trò tàu ngầm Kilo trong “phòng thủ chủ động” của hải quân Việt Nam (2)
Tàu ngầm Kilo Việt Nam được trang bị đầy đủ các hệ thống vũ khí để đảm nhận các nhiệm vụ tấ.n côn.g mặt nước, đối ngầm, đối đất và phòng không.
Vũ khí chính của nó là các loại thủy lôi và ngư lôi chống ngầm; tên lửa hành trình chống hạm và đối đất, cùng với hệ thống tên lửa phòng không tầm thấp. Những loại vũ khí đa dạng này đều có uy lực rất mạnh, tạo nên khả năng tác chiến đa nhiệm cho tàu ngầm Kilo.
Kilo có khả năng đảm nhận nhiều vai trò, chức năng khác nhau
Tàu ngầm Kilo có nhiệm vụ tìm kiếm, bí mật theo dõi và tấ.n côn.g tiêu diệt tầu ngầm của đối phương, đảm nhận trách nhiệm chống ngầm bảo vệ lực lượng hải quân của ta; Trinh sát, bám nắm và tiê.u diệ.t các cụm tầu nổi (hàng không mẫu hạm; tàu khu trục, hộ vệ; tàu hậu cần, bổ trợ; tàu trinh sát kỹ thuật, đo đạc âm hưởng…) của hải quân đối phương; Tấ.n côn.g vào các mục tiêu đầu não của địch trên mặt đất hoặc hỗ trợ lực lượng đán.h chiếm, tái chiếm đảo.
Nó có thể bí mật thiết lập các trận địa thủy lôi nhằm phong tỏa cảng, vùng biển, luồng đường. Hệ thống phóng ngư lôi 533mm trên tàu ngầm Kilo còn có chức năng dùng để rải lôi với cơ số tối đa 24 quả thủy lôi DM-1. Thủy lôi sau khi được phóng ra khỏi tàu ngầm sẽ khởi động các sensor thủy âm, điện từ trường, sonar thụ động ở chế độ chờ, và khi mục tiêu đến, chủ động kích hoạt và tiê.u diệ.t mục tiêu.
Ngoài ra, tàu ngầm Kilo còn có thể đảm nhận rất nhiều chức năng khác như: Thực hiện các hoạt động trinh sát, dẫn đường cho các lực lượng của ta tiếp cận đối phương, chỉ thị mục tiêu cho các phương tiện hỏa lực; Bí mật áp sát các cảng, căn cứ hải quân địch, thực hiện nhiệm vụ đổ bộ các lực lượng đặc công nước tiến hành trinh sát thực địa, tấ.n côn.g phá hoại, bóc gỡ chướng ngại vật ngầm…
Tàu ngầm Kilo có vai trò rất quan trọng trong hình thái “phòng ngự chủ động” của hải quân nhân dân Việt Nam (Ảnh: Quân đội nhân dân)
Tầu ngầm Kilo có thể triển khai các hoạt động tác chiến đơn lẻ hoặc thuộc biên chế của một cụm tàu ngầm hoặc nằm trong đội hình một biên đội tàu hỗn hợp (tàu ngầm, tàu mặt nước). Tàu ngầm Kilo có thể thực hiện nhiệm vụ tác chiến trong mọi hình thái chiến thuật như: Phục kích, đón lõng theo kế hoạch; mật tập mục tiêu xác định; cơ động tấ.n côn.g theo yêu cầu khẩn cấp hoặc tao ngộ chiến…
Với 3 hình thức chiến thuật trên thì tàu ngầm Kilo có thể tấ.n côn.g với sự chuẩn bị trước các thông số kỹ chiến thuật từ Trung tâm chỉ huy tác chiến hải quân và bằng các thiết bị trinh sát tự thân tầu ngầm. Trong điều kiện này, đòi hỏi phải có sự phối hợp hợp, hiệp đồng và chỉ huy thống nhất tất cả các lực lượng máy bay trực thăng, máy bay trinh sát cánh cố định, tàu mặt nước, các hệ thống radar đối hải, các thiết bị cảm biến âm thanh…
Còn với hình thức sau thì Kilo cần phải phát động đòn tấ.n côn.g “Tiên phát chế nhân”, tấ.n côn.g nhanh không có sự chuẩn bị trước mà chỉ dựa vào các số liệu trinh sát của chính nó. Vì vậy, ở hình thức này độ nhạy và cự ly trinh sát, phát hiện của các thiết bị sonar, radar… đóng vai trò quyết định; tốc độ xử lý số liệu của thiết bị phân tích trên tàu ngầm cũng phải vượt trội so với đối phương để kịp thời xác định phương án, ra đòn tấ.n côn.g tiêu diệt địch trước.
Tàu ngầm Kilo có khả năng tấ.n côn.g đối thủ trước khi địch phát hiện ra
Điểm hạn chế của Kilo
Một điểm yếu duy nhất của Kilo và cũng là điểm yếu chung của tất cả các loại tàu ngầm là đối phó với máy bay săn ngầm. Kilo được trang bị hệ thống phòng không bao gồm 8 quả tên lửa tầm thấp Strela-3, chuyên dụng để đối phó với các mục tiêu máy bay cánh cố định và trực thăng săn ngầm, UAV bay thấp. Tuy nhiên, hệ thống phòng không này không thực sự hiệu quả do các nguyên nhân sau:
Video đang HOT
Thứ nhất là tính năng của hệ thống tên lửa phòng không này quá thấp (tầm bắ.n tối đa 4,1km, độ cao mục tiêu từ 30m tới 2,3km). Loại tên lửa này thực tế chỉ giúp nó đối phó được với trực thăng và UAV, còn các máy bay săn ngầm cánh cố định trên thế giới hiện nay đều có trần bay tối đa từ 10-15km, trần bay hiệu quả tầm 6km, vượt qua độ cao tấ.n côn.g của tên lửa. Vì vậy Kilo không thể đối phó với những loại máy bay này.
Thứ 2: Do tên lửa không thể phóng từ dưới mặt nước nên quy trình phóng tên lửa phòng không trên Kilo không thực sự linh hoạt, Hệ thống tên lửa này được bố trí trên đài điều khiển bên trong một khoang kín nước. Giá phóng sẽ được đưa lên bằng một hệ thống thủy lực để ngắm bắ.n mục tiêu. Lúc đó con tàu sẽ phải nổi lên sát mặt nước, bộc lộ hành tung. Do vậy, hệ thống chỉ dùng để tự vệ trong trường hợp nổi lên thì bị phát hiện.
Tàu ngầm Kilo tấ.n côn.g phá hủy một đài radar cảnh giới biển
Tuy nhiên, đây cũng là điểm yếu chung của tất cả các loại tàu ngầm trên thế giới, xuất phát từ chính vai trò nhiệm vụ của chúng. Với đặc điểm là các sát thủ dưới đáy biển, tàu ngầm chỉ bộc lộ mình những khi thật cần thiết. Vì vậy, khả năng phòng không của chúng đơn thuần để chỉ tự vệ, sử dụng những khi không thể che giấu được hành tung, còn cơ bản là các tàu ngầm chọn phương thức cơ động lẩn tránh để đào thoát khỏi “mắt thần” của các phương tiện săn ngầm.
Trên thực tế, các máy bay săn ngầm nếu không phán đoán được hoạt động của tàu ngầm thì rất khó phát hiện được chúng trên một vùng biển lớn. Hơn nữa, trong thực tế tác chiến, các tàu ngầm thường có sự phối hợp tác chiến chặt chẽ với các tàu mặt nước và lực lượng không quân, nên lực lượng máy bay săn ngầm (cả cánh cố định và trực thăng) của đối phương vốn có vận tốc rất chậm sẽ khó mà yên ổn để săn đuổi tàu ngầm.
Hiểm họa lớn nhất đối với các tàu ngầm hiện nay đến từ các hệ thống cảm biến âm thanh đặt dưới nước, đối phương sẽ rải các thiết bị cảm biến âm thanh dưới đáy biển để trinh sát, phát hiện tàu ngầm. Hiện nay, Mỹ là nước đi đầu trong hình thức trinh sát kiểu này với một mạng lưới các hệ thống cảm biến dưới đáy biển trên khắp các đại dương, được lắp đặt từ thời chiến tranh lạnh để chuyên đối phó với tàu ngầm Liên Xô. Tuy nhiên, ngoài tàu ngầm ra, các tín hiệu truyền về phải được thu nhận bởi các tàu trinh sát kỹ thuật hoặc tàu đo đạc âm hưởng nên đây cũng là điểm yếu của phương thức này.
Tên lửa hành trình đối hạm 3M-54E có uy lực tấ.n côn.g rất lớn
Kilo có ý nghĩa rất quan trọng đối với bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam
Tạp chí quốc phòng nổi tiếng của Canada là Kanwa Defence Review cũng nhận định, so với loạt 8 tàu ngầm Kilo 636MK của Trung Quốc, tàu ngầm 636MV của Việt Nam được ứng dụng các công nghệ tiên tiến hơn, có nhiều cải tiến về kính tiềm vọng, trang bị trinh sát điện tử, ngói khử âm, hệ thống duy trì sự sống cho thủy thủ trên tàu ngầm…, đồng thời có hỏa lực mạnh hơn so với các tàu ngầm cùng lớp sản xuất trong các dự án trước đó như 877EKM, 636MK…
Có thể khẳng định là sau khi được bàn giao tàu, lực lượng hải quân nhân dân Việt Nam đã có một loại vũ khí “tàng hình” có khả năng tấ.n côn.g toàn diện đối không, đối hải, đối đất rất mạnh, một lợi khí trong tác chiến biển, một trang bị phòng thủ từ xa rất hữu hiệu để bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích hải dương của Việt Nam. Tuy nhiên, để biên đội tàu ngầm Việt Nam hình thành được năng lực tác chiến không phải điều đơn giản.
Tàu ngầm là loại trang bị tiên tiến lần đầu tiên chúng ta được sở hữu. Vì thế phải xây dựng từ đầu các cơ sở hạ tầng hậu cần, kỹ thuật, huấn luyện cho riêng nó và phục vụ công tác hiệp đồng với các quân binh chủng khác. Ví dụ như: Trung tâm chỉ huy tác chiến hải quân, trong đó phải bao gồm các hệ thống thông tin và chia sẻ số liệu tàu ngầm, thông tin máy bay cảnh báo sớm, radar đối hải, liên lạc với tàu mặt nước, lực lượng bảo vệ bờ biển…
Mô phỏng đường bay tấ.n côn.g một mục tiêu bờ biển của tên lửa hành trình đối đất 3M-14E
Có thể nói, sở hữu tàu ngầm Kilo thế hệ mới đối với hải quân Việt Nam là một bước ngoặt thực sự, nó đã mở rộng phạm vi hoạt động của hải quân Việt Nam từ gần bờ ra xa bờ, từ trên mặt nước xuống tận đáy biển. Việc trang bị tàu ngầm Kilo đã khiến hải quân Việt Nam có khả năng khống chế những vùng biển rộng hơn mà không cần tăng cường quá nhiều tàu mặt nước, giúp hải quân Việt Nam có đủ khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích trên biển từ xa.
Với 6 tàu ngầm Kilo làm nòng cốt, trong tương lai Việt Nam cần trang bị thêm các tàu ngầm cỡ nhỏ hoặc tàu ngầm mini để hình thành bộ khung tác chiến cho binh chủng tàu ngầm, đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng căn cứ nước sâu trên đất liền và căn cứ dã chiến trên các đảo làm bàn đạp đứng chân cho lực lượng tác chiến ngầm, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng tàu mặt nước và các lực lượng khác trong thế trận hải quân nhân dân bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích trên biển của Việt Nam.
Theo Nguyễn Ngọc
An ninh thủ đô
Điểm mặt đội tàu ngầm ở Đông Nam Á
Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á mới nhất sở hữu tàu ngầm, khi chiếc tàu ngầm lớp Kilo cải tiến đầu tiên trong Dự án 636 ký với Nga được chuyển về cảng Cam Ranh vào ngày 31/12 vừa qua.
Chiếc tàu ngầm chạy bằng nhiên liệu thông thường lớp Varshavyanka Dự án 636 của Nga hay lớp Kilo nâng cấp được chuyển từ cảng St. Petersburg của Nga trên chiếc tàu vận tải hạng nặng Rolldock Sea. "Hộ tống" chiếc tàu ngầm đầu tiên trong số 6 tàu ngầm Việt Nam đặt mua của Nga là đội chuyên gia của Xưởng đóng tàu Admiralty ở St. Petersburg. Họ sẽ đảm nhiệm những công việc cuối cùng trên chiếc tàu ngầm trước lễ chuyển giao chính thức sắp tới. Chiếc tàu ngầm dự kiến sẽ được đạt tên là HQ 182 Hà Nội. 5 chiếc còn lại trong Dự án 636 dự kiến sẽ được chuyển giao hết vào năm 2016.
Hồi cuối tháng 11 vừa qua, trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, thông tin Ấn Độ sẽ hỗ trợ huấn luyện tới 500 thủy thủ Việt Nam cho các tàu ngầm đã được công bố. Đây là một phần trong chương trình hợp tác quốc phòng giữa hai nước. Theo giáo sư Carl Thayer, chuyên gia quân sự châu Á của Úc, việc huấn luyện sẽ được thực hiện tại trung tâm huấn luyện tàu ngầm hiện đại của Hải quân Ấn Độ INS Satavahana tại Visakhapatnam. Bản thân Hải quân Ấn Độ đã vận hành các tàu ngầm Kilo của Nga từ tận giữa những năm 1980.
Cũng theo giáo sư Carl Thayer, sự hiện diện của tàu ngầm HQ 182 Hà Nội đúng vào thời điểm hải quân các nước trong khu vực đang thúc đẩy chương trình hiện đại hóa hải quân, trong đó việc sở hữu tàu ngầm thông thường được coi trọng.
Từ tận năm 1967, Indonesia đã trở thành một trong những nước Đông Nam Á đầu tiên sở hữu khả năng dưới lòng biển khi nhận "mẻ" tàu ngầm lớp Whiskey của Liên Xô. Sau đó đội tàu ngầm này được thay thế bằng 2 tàu ngầm diesel của Tây Đức vào năm 1978.
Năm 2012, Bộ Quốc phòng Indonesia đã công bố kế hoạch mở rộng hạm đội tàu ngầm của mình lên 12 chiếc vào năm 2020. 12 chiếc này là con số tối thiểu cần có để bao quát những điểm chiếm lược hay những tuyến đường biển quan trọng ra vào quốc đảo này.
Hiện tại Indonesia đã đặt hàng 3 chiếc tàu ngầm U-209 và chúng đang được Daewoo Shipbuilding and Marine Engineering, Hàn Quốc, phối hợp cùng PT PAL của Indonesia sản xuất. Hạm đội tàu ngầm này dự kiến sẽ được chuyển giao khoảng từ năm 2015-2016.
Ngoài ra, Indonesia cũng đang xem xét 2 lựa chọn. Thứ nhất là mua và nâng cấp các tàu ngầm lớp Kilo của Nga. Một nhóm kỹ thuật viên nước này, do Tham mưu trưởng Hải quân, Đô đốc Marsetio, dẫn đầu sẽ thăm Nga vào tháng này nhằm thị sát các tàu và vũ khí đi kèm. Với lựa chọn này, giá cả và hiệu quả hoạt động của tàu sẽ được xem xét.
Các nguồn tin Indonesia cho hay lựa chọn tàu Kilo khả thi bởi tàu có thể được trang bị hoặc tên lửa siêu thanh Yakhont hoặc tên lửa hành trình Klub-S. Tên lửa hành trình Klub-S có thể bắ.n dưới nước và tấ.n côn.g cả các mục tiêu trên mặt đất, cách xa tới 400km.
Lựa chọn thứ hai của Indonesia là mua tàu ngầm mới của Hàn Quốc. Lựa chọn này "hấp dẫn" bởi tàu ngầm mới phù hợp với hạ tầng cầu cảng hiện nay.
Các nguồn tin báo chí cũng cho thấy tàu ngầm mới của Indonesia sẽ neo đậu tại căn cứ hải quân Palu mới được xây dựng tại Trung Sulawesi. Những tàu ngầm này có thể hoạt động ở vùng nước sâu quanh các đảo miền đông củaIndonesia.
Trong kkhi đó cuối tháng 11 vừa qua, Singapore tuyên bố đã ký thỏa thuận mua 2 tàu ngầm thông thường mới Type 218SG của ThyssenKrupp Marine Systems ở Đức. Hợp đầu mua bán bao gồm cả đào tạo thủy thủ tại Đức.
Tàu ngầm của Singapore sẽ dược trang bị hệ thống đẩy khí độc lập và dự kiến sẽ được chuyển giao vào năm 2020. Tàu ngầm mới sẽ thay thế cho 4 chiếc tàu ngầm cũ lớp Challenger và sẽ gia nhập cùng 2 chiếc tàu ngầm lớp Archer mới được tân trang (trước kia là tàu lớp Vstergtland của Thụy Điển) để tạo thành hạm đội dưới lòng biển của Singapore.
Còn Malaysia đã sở hữu hai tàu ngầm lớp Scorpène của Pháp sau hợp đồng ký kết năm 2002. 2 tàu RMN Tunku Abdul Rahman và RMN Tun Abdul Razak đã lần lượt được đưa vào phục vụ trong hải quân năm 2007 và 2009. Chúng được "đồn trú" tại Sepanggar, Sabah. Tháng 5/2012,Malaysia cho biết việc mua thêm tàu ngầm phụ thuộc vào nguồn quỹ cho phép. Cũng năm này, Malaysia đã ký một hợp đồng mua một tàu ngầm Escape và tàu cứu hộ tàu ngầm sẽ được sản xuất ở Singapore.
Tháng 6/2013, tướng quân sự cấp cao của Myanmar Min Aung Hlaing đã tham gia đàm phán với giới chức Nga về việc mua 2 tàu ngầm lớp Kilo. Cũng cùng tháng có thông tin cho biết 20 sỹ quan đã bắt đầu được làm quen và huấn luyện cơ bản về tàu ngầm ở Trung tâm huấn luyện tàu ngầm PNS Bahadur tại Pakistan. Những thông tin này cho thấy Myanmar có ý định thành lập một lực lượng tàu ngầm vào năm 2015.
Vào tháng 4/2011, Thái Lan bước vào thị trường mua 2 trong 6 chiếc tàu ngầm diesel đã "về hưu" Type 206A của Đức với giá 220 triệu USD. Với trọng tải rẽ nước 550 tấn, chúng nằm trong số những tàu ngầm tấ.n côn.g nhỏ nhất thế giới. Tuy nhiên, Thái Lan có thay đổi chính phủ vào tháng 7/2011 và những khác biệt nội bộ giữa Bộ trưởng Quốc phòng mới và Hải quân khiến dự án bị gác lại.
Tháng 10/2013, có thông tin cho thấy Hải quân Hoàng gia Thái sẽ đưa việc mua 3 tàu ngầm vào kế hoạch mua bán 10 năm tới. Trong khi đó Thái Lan đã bắt đầu xây dựng các cơ sở cho một trung tâm huấn luyện tàu ngầm và một căn cứ tại căn cứ hải quân Sattahip tại Chon Buri. Căn cứ này dự kiến sẽ hoàn tất vào tháng 3 năm nay và sẽ được trang bị một Trung tâm huấn luyện chỉ huy tàu ngầm.
Năm ngoái Hải quân Hoàng gia Thái đã cử 80 sỹ quan tham gia khóa đào tạo tàu ngầm kéo dài 32 tuần ở Đức và 10 sỹ quan khác tham gia khóa huấn luyện 8 tuần ở Hàn Quốc.
Còn Philippines, trong những năm đầu dưới sự nắm quyền của Tổng thống Aquino, tàu ngầm được cho là nằm trong "danh sách ưu tiên" của Bộ Quốc phòng, theo một chương trình hiện đại hóa các lực lượng vũ trang. Song kế hoạch sở hữu tàu ngầm này có vẻ như đã lặng lẽ được dỡ bỏ.
Theo giáo sư Carl Thayer, trong vòng 5 năm tới 1 thập niên tới, các vùng biển ở Đông Nam Á và đặc biệt là Biển Đông, sẽ chứng kiến việc gia tăng đáng kể các tàu ngầm thông thường ở các nước khu vực. Theo ông vì vậy mà Biển Đông càng "nóng" hơn.
Giáo sư Úc cho rằng việc sở hữu các lực lượng tàu ngầm sẽ tăng chiều thứ tư cho khả năng chiến đấu trong khu vực, ngoài đối không, đối đất và đối hạm. Tàu ngầm cũng có khả năng do thám và thu thập thông tin tình báo, đặt mình, chống hạm và tấ.n côn.g tầm xa.
Nhưng theo giáo sư, các lãnh đạo hải quân Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thảo luận rất ít về việc ứng dụng chiều thứ tư này. Và rất ít nước ASEAN được trang bị hỗ trợ tàu ngầm ở mức cơ bản nhất khi tàu gặp nguy hiểm. Chỉ có Singapore và Malaysia là trường hợp ngoại lệ. Cuối năm 2008, Singapore đã thiết lập tàu cứu hộ nhanh MV Swift Rescue, một tàu hỗ trợ tàu ngầm được trang bị 2 tàu tìm kiếm và cứu hộ nước sâu.
Singapore cũng đã đi tiên phong trong việc khuyến khích phối hợp cứu hộ tàu ngầm giữa các hải quân trong trường hợp xảy ra ta.i nạ.n bất ngờ. Thỏa thuận đã được ký với Úc, Indonesia và Việt Nam.
Theo Dantri
Tàu ngầm đầu tiên của Việt Nam được bốc dỡ thế nào? Từ nay đến ngày 3/1, việc bốc dỡ các thiết bị rời kèm theo của tàu ngầm Hà Nội trên tàu Rolldock Sea sẽ được tiến hành sau khi tàu vận tải này về tới vịnh Cam Ranh đêm 31/1. Sau khi tháo dỡ sẽ là quá trình hạ chìm một phần tàu vận tải để tàu ngầm thoát ra ngoài. Theo thông...