‘Vá’ tim cho trẻ chậm tăng cân
Bé gái hơn 3 tháng tuổi, nặng 4,5 kg mắc bệnh tim bẩm sinh thông liên thất rộng kèm thiểu sản phổi trái.
Bệnh nhi P.B.T. (trú huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam), trước đó đã phát hiện mắc bệnh tim bẩm sinh và đến khám tại BVĐK Trung ương Quảng Nam. Khoa Nội tim mạch phối hợp với Khoa Thăm dò chức năng – Chẩn đoán hình ảnh của BV đã siêu âm Doppler màu tim và chụp cắt lớp vi tính kết luận bệnh nhi mắc bệnh tim bẩm sinh thông liên thất rộng kèm thiểu sản phổi trái. Hội đồng chuyên môn của bệnh viện tổ chức hội chẩn và đưa ra phương pháp điều trị.
Ê kip phẫu thuật tim của bệnh viện do TS.BS. Nguyễn Lương Tấn cùng các bác sĩ Khoa Ngoại tim mạch – lồng ngực, Khoa Gây mê – Hồi sức đã phẫu thuật thành công cho bệnh nhi với phương pháp vá lỗ thông liên thất bằng tim tự thân.
Sau mổ 4 ngày bé đã được đưa ra khỏi phòng hồi sức, tình trạng sức khỏe ổn định và bú mẹ tốt.
Thông liên thất ở trẻ sơ sinh, gây ra các triệu chứng như khó thở, ăn uống kém, chậm tăng cân ở hầu hết trẻ.
Theo các bác sĩ, thông liên thất xảy ra khi có sự xuất hiện của một hay nhiều lỗ nằm trên vách ngăn giữa tâm thất trái và tâm thất phải. Khi đó, máu giàu oxy từ tâm thất trái đổ vào tâm thất phải, lên thẳng động mạch phổi, làm tăng thể tích và áp lực trong hệ tuần hoàn phổi và tăng lượng máu trở về tim trái. Đồng thời, tim cần phải làm việc nhiều hơn, lâu dần khiến tim bị giãn. Lỗ thông được xem là lớn khi> 3/4 đường kính vòng van, nhỏ khi kích thước 1/4 đường kính vòng van, còn lại từ 1/4 – 3/4 là trung bình. Thông liên thất không kèm bệnh tim bẩm sinh nào khác chiếm 37% tổng số bệnh tim bẩm sinh ở trẻ em. Sàng lọc ở trẻ sơ sinh, tỷ lệ thông liên thất chiếm khoảng 0,3%.
Có tới 90% các trường hợp lỗ thông liên thất có thể tự bít trong năm đầu đời hoặc trước 10 tuổi. Trường hợp lỗ thông liên thất có kích thước từ trung bình đến lớn có thể gây ra các biến chứng bất lợi cho trẻ như tăng áp động mạch phổi, rối loạn chức năng tâm thất và tăng nguy cơ rối loạn nhịp tim. Khi đó, trẻ cần điều trị bằng phẫu thuật hoặc thông tim để đóng lỗ thông, tránh các biến chứng nguy hiểm và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phục hồi, phát triển bình thường của trẻ.
Video đang HOT
Bệnh suy tim và những điều cần biết
Nhiều bệnh nhân khi có triệu chứng khó thở, mệt mỏi, đau tức ngực, được người nhà đưa đi cấp cứu mới biết mình bị suy tim.
Điều dưỡng Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai chăm sóc ông Đ.V.H., bị suy tim nặng. Ảnh: H.Dung
Bệnh suy tim được xem là hậu quả cuối cùng của các bệnh lý tim mạch chưa được điều trị kịp thời và đúng phương pháp. Bệnh phải điều trị cả đời.
Đe dọa tính mạng người bệnh
Ông Đ.V.H., 61 tuổi, ngụ xã Phú Trung, huyện Tân Phú mới phát hiện bị bệnh suy tim từ tháng 12-2023. Từ đó đến nay, ông liên tục phải nhập viện để cấp cứu, điều trị.
Bà N.T.V., vợ của ông H. cho biết, ban đầu ông bị ho nên đến một cơ sở y tế gần nhà để thăm khám, được bác sĩ chẩn đoán viêm phổi, cho thuốc về nhà uống. Vài ngày uống thuốc tây không thấy bớt, gia đình cho bệnh nhân uống thuốc nam vì nghĩ rằng uống thuốc nam cho mát! Tuy nhiên, bệnh nhân sau đó bị phù nước khắp người, gia đình đưa đến Bệnh viện Đa khoa khu vực Định Quán cấp cứu thì được chẩn đoán mắc bệnh suy tim.
Trung bình mỗi ngày Khoa Nội tim mạch Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai tiếp nhận và điều trị cho từ 45-60 bệnh nhân, trong đó hơn bệnh nhân mắc bệnh suy tim. Các bệnh nhân nhập viện thường do bị suy tim cấp lần đầu hoặc tái phát.
Khoảng 2 tuần sau đó, ông H. thấy người mệt mỏi, được đưa vào Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh cấp cứu. Các bác sĩ tiếp tục chẩn đoán ông bị suy tim. Đáng lưu ý, 1 ngày sau nhập viện, ông H. bị nhồi máu não dẫn đến rối loạn ngôn ngữ, cơ thể kiệt quệ.
Bà N.T.V.cho hay, bác sĩ nói tim của chồng bà đã bị suy nhiều, chỉ còn khoảng 20%, cần phải phẫu thuật để điều trị nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn, cộng với việc lo ngại quá trình phẫu thuật sẽ gây đau đớn cho bệnh nhân nên gia đình bà xin bác sĩ tiếp tục điều trị bằng thuốc.
BS CKII Nguyễn Thị Bích Vân, Trưởng khoa Nội tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai cho biết, biểu hiện thường gặp của bệnh suy tim là khó thở khi nằm xuống, khó thở đột ngột vào ban đêm, mệt mỏi, chán ăn...
Có 4 mức độ của bệnh suy tim, từ nhẹ đến nặng. Trong đó, suy tim độ 3 là khi bệnh nhân thấy khó thở khi đi quãng đường ngắn hay đi bộ lên cầu thang, quét nhà, tắm rửa... Suy tim độ 4 khiến bệnh nhân lúc nào cũng khó thở, không thể tự sinh hoạt bình thường. Nguyên nhân dẫn đến suy tim là do tình trạng thiếu máu cơ tim, hẹp mạch máu dẫn đến tim không được tưới máu đầy đủ, lâu ngày dẫn đến suy tim.
Các bệnh lý thường dẫn đến suy tim gồm: người bị bệnh mạch vành mạn tính, cấp tính như nhồi máu cơ tim; bệnh cơ tim; hẹp, hở van tim, bệnh tim bẩm sinh không được can thiệp phẫu thuật đúng thời điểm; bệnh tăng huyết áp, các dạng rối loạn nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim chậm kéo dài.
Ngoài ra, các bệnh khác như: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, đái tháo đường, cường giáp, suy thận, xơ gan cũng có thể gây suy tim.
Suy tim có thể xảy ra mọi lứa tuổi. Ở trẻ em là do bệnh tim bẩm sinh thường không được can thiệp, phẫu thuật kịp thời. Ở người lớn, tuổi càng cao càng có nguy cơ mắc bệnh suy tim, đặc biệt ở người trên 80 tuổi.
Bác sĩ khuyến cáo, để phòng ngừa bệnh suy tim, người dân cần có chế độ dinh dưỡng phù hợp, có lối sống lành mạnh, không hút thuốc lá, tăng cường luyện tập thể thao, khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần để kịp thời phát hiện sớm các bệnh lý bất thường, trong đó có bệnh suy tim. Từ đó, bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp với tình hình sức khỏe của người bệnh, nếu có.
Bệnh phải điều trị suốt đời
Theo BS Lâm Hồng Đức, Khoa Nội tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, bệnh lý tim mạch nói chung và bệnh suy tim nói riêng là bệnh mạn tính, phải điều trị suốt đời. Bệnh suy tim diễn tiến không ổn định trong suốt cuộc đời người bệnh mà sẽ có thể có những đợt thay đổi như khi bệnh nhân bị huyết áp cao hoặc mắc các bệnh lý nội khoa khác như viêm phổi, rối loạn tiêu hóa. Lúc này, các chức năng gan, thận của bệnh nhân sẽ thay đổi theo.
Do vậy, bệnh nhân suy tim cần phải điều chỉnh huyết áp, đường huyết ổn định. Bệnh nhân cần tuân thủ hướng dẫn và chỉ định tái khám cũng như dùng thuốc của bác sĩ. Ở mỗi lần tái khám, bác sĩ sẽ theo dõi các chỉ số về huyết áp, mạch, các chỉ số xét nghiệm như đường huyết, chức năng gan, chức năng thận... để có điều chỉnh liều lượng và loại thuốc phù hợp.
Bác sĩ thường xuyên phải đo nồng độ oxy trong máu bệnh nhân bị suy tim.
Về chế độ dinh dưỡng đối với người bệnh suy tim, bác sĩ khuyến cáo cần giảm lượng muối trong khẩu phần ăn, mỗi ngày chỉ nên sử dụng khoảng 3g muối. Tăng cường ăn rau xanh, ngũ cốc, trái cây tươi, tránh những loại thực phẩm ngâm muối như: dưa, cà, cá khô, măng chua; không nên uống quá nhiều nước lọc, chỉ nên uống khoảng 1,2 lít nước/ngày; không sử dụng các chất kích thích như bia, rượu, trà, cà phê, thuốc lá.
Người bệnh có thể đi bộ nhẹ nhàng phù hợp khả năng của mình. Tránh khiêng vác nặng, lên dốc. Uống thuốc đều đặn, đúng khung giờ quy định, tự đo mạch, huyết áp, cân nặng mỗi ngày. Nếu khó thở liên tục, nhịp tim nhanh, tăng cân nhanh 2kg/3 ngày, bệnh nhân phải tái khám ngay.
"Mục đích trong điều trị bệnh suy tim hiện nay là giảm tình trạng bệnh nhân phải nhập viện cấp cứu, giảm tỷ lệ tử vong. Do vậy, ngoài điều trị nội khoa, cần phối hợp với các chuyên ngành về can thiệp tim mạch, phẫu thuật tim để điều trị các nguyên nhân, kéo dài tuổi thọ cho người bệnh" - bác sĩ Hồng Đức chia sẻ.
Nguy cơ tử vong của trẻ mắc tim bẩm sinh Nếu trẻ mắc tim bẩm sinh mà không được điều trị kịp thời sẽ gây suy tim nặng và có thể đột tử bất cứ lúc nào. Tại Việt Nam, trung bình mỗi năm có hơn 1,5 triệu trẻ ra đời, trong đó khoảng 10.000-12.000 trẻ mắc bệnh lý tim bẩm sinh. Còn trên thế giới, mỗi năm có khoảng 1-1,5 triệu trẻ...