Ung thư không lây nhưng các virus gây ung thư này dễ “lây”, biết để ngừa kẻo muộn
Ung thư không lây nhưng những thói quen giống nhau có thể khiến một gia đình “lây lan” ung thư hay chính xác hơn là những virus có thể gây ra ung thư.
Trong Khoa Bệnh hậu môn trực tràng của Bệnh viện Nhân dân thứ ba Hàng Châu, Trung Quốc, bà Zhou, 63 tuổi, không may bị phát hiện mắc bệnh ung thư trực tràng. Thật bất ngờ, chỉ sau một tuần, chồng bà là ông Wang Lao cũng được chẩn đoán mắc bệnh ung thư trực tràng.
Thực tế đã có không ít những trường hợp một gia đình mắc ung thư như vợ chồng bà Zhou. Năm anh em đến từ Giang Tây có 4 người mắc ung thư dạ dày chỉ trong 7 năm, trong đó có 2 người đã chết vì căn bệnh này.
Những năm gần đây, tình trạng các thành viên trong cùng gia đình mắc ung thư ngày càng trở nên phổ biến. Khi ai đó được chẩn đoán mắc bệnh ung thư, các thành viên khác cũng lo ngại về vấn đề này. Liệu có phải ung thư có thể lây?
Tình trạng một gia đình cùng mắc một bệnh ung thư đang xảy ra nhiều hơn. (Ảnh minh họa)
Ung thư có lây không?
Theo định nghĩa về ung thư của Tổ chức Y tế Thế giới: Ung thư là một thuật ngữ chung cho một nhóm lớn các bệnh có thể ảnh hưởng đến bất kỳ bộ phận nào của cơ thể con người, còn được gọi là ác tính hoặc tân sinh. Một trong những đặc điểm của ung thư là các tế bào bất thường được tạo ra nhanh chóng, sự tăng trưởng của chúng vượt quá giới hạn bình thường và kết quả là chúng có thể xâm chiếm các bộ phận lân cận của cơ thể và lan sang các cơ quan khác.
Ung thư được gây ra bởi những thay đổi trong gen của các tế bào. Nó không phải là một bệnh truyền nhiễm. Điều này cũng được kiểm chứng thông qua việc các bác sĩ và y tá đã tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân ung thư trong một thời gian dài nhưng họ không có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn người bình thường.
Do đó, các thành viên trong cùng một gia đình không thể bị lây nhiễm ung thư thông qua tiếp xúc hàng ngày. Tuy nhiên có một số tình huống rất đặc biệt, ung thư có thể truyền nhiễm.
Video đang HOT
Đã có một trường hợp lây truyền ung thư trong lịch sử loài người xảy ra ở châu Âu. Vào thời điểm đó, có 4 bệnh nhân được cấy ghép nội tạng từ cùng một người hiến. Không ai trong số họ sống sót sau 16 tháng đến 6 năm sau khi ghép và họ đều qua đời vì mắc ung thư vú. Hóa ra người hiến tạng mắc ung thư. Cấy ghép nội tạng của người khác vào cơ thể của chính mình không chỉ đối mặt với nguy cơ bị từ chối mà còn có nguy cơ mắc bệnh từ người hiến.
Sự cố này đã gây chấn động cộng đồng y tế, yêu cầu cần phải tăng cường phát hiện và đánh giá sức khỏe của những người hiến tạng để tránh các sự cố tương tự.
7 thành viên trong một gia đình ở Mỹ đều mắc ung thư dạ dày lan tỏa.
Mặc dù ung thư không lây nhưng có những thói quen có thể khiến cả gia đình mắc ung thư. Điều này là do những người trong cùng gia đình ở cùng một môi trường sống và có chung thói quen ăn uống, sinh hoạt. Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi họ có thể có cùng loại ung thư.
Cặp vợ chồng già ở Hàng Châu đã có chế độ ăn uống bất thường từ khi còn trẻ. Họ thích ăn các sản phẩm ngâm muối và thường ăn các món ăn qua đêm. Những thói quen này là những yếu tố nguy cơ cao gây ung thư ruột.
Điều tương tự cũng đúng với năm anh em ở Giang Tây. Họ thường ăn đồ ngâm từ khi còn nhỏ, và chế độ ăn kiêng này có khả năng gây ung thư dạ dày. Ngoài ra, các gia đình thường có thói quen dùng chung đũa, chấm chung bát nước chấm nên có thể dễ dàng gây lây truyền vi khuẩn Helicobacter pylori trong gia đình.
Nghiên cứu hiện tại cho thấy ung thư ruột, phổi, dạ dày, thực quản và gan có nhiều khả năng gây “lây lan” trong gia đình thông qua những thói quen xấu phổ biến.
Vi khuẩn và vi rút liên quan chặt chẽ đến việc ung thư có thể lây truyền
Một số vi khuẩn có liên quan chặt chẽ đến sự xuất hiện của ung thư, chẳng hạn như Helicobacter pylori và các loại virus như virus u nhú ở người, virus viêm gan và virus EB là bệnh truyền nhiễm.
1. Helicobacter pylori: Được liệt kê là chất gây ung thư hạng nhất của Tổ chức Y tế Thế giới, có liên quan chặt chẽ đến sự xuất hiện của ung thư dạ dày. Nó chủ yếu được truyền qua miệng và nước bọt, và tiếp xúc với bộ đồ ăn chung và hôn có thể gây nhiễm trùng.
Thói quen dùng chung bát đũa, chấm chung dễ lây lan virus HP. (Ảnh minh họa)
2. Virus papilloma ở người (HPV): Có hơn 110 loại virus này, khoảng 35 loại có liên quan đến nhiễm trùng đường sinh sản và 20 loại có liên quan đến nguyên nhân khối u. HPV rất phổ biến với 75% phụ nữ bị nhiễm HPV tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ. Sau khi bị nhiễm trùng, hầu hết phụ nữ có thể được làm sạch bằng phương pháp tự miễn dịch, nhưng một số ít phụ nữ có thể bị nhiễm trùng dai dẳng. Đặc biệt, nhiễm trùng HPV nguy cơ cao kéo dài có thể dễ dàng dẫn đến ung thư cổ tử cung. Virus HPV lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục.
3. Virus viêm gan: Viêm gan siêu vi chủ yếu bao gồm viêm gan A, B, E và D. Tỷ lệ mắc cao nhất là viêm gan B. Nếu viêm gan mạn tính không được kiểm soát tốt, nó sẽ từ từ dẫn đến xơ gan và thậm chí là ung thư gan. Viêm gan A và E lây truyền qua đường phân-miệng, nghĩa là thực phẩm, nước và tiếp xúc hàng ngày và có thể gây nhiễm trùng. Viêm gan B, C và D chủ yếu lây truyền qua máu, từ mẹ sang con và quan hệ tình dục.
4. Virus Epstein-Barr: Virus Epstein-Barr thường được tìm thấy trong cơ thể người và cùng tồn tại hòa bình với những người trong hoàn cảnh bình thường. Mang virus EB không nhất thiết dẫn đến ung thư vòm họng, nhưng ung thư vòm họng phải bị nhiễm virus EB. Virus Epstein-Barr không chỉ liên quan đến ung thư vòm họng, mà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nó cũng liên quan đến sự xuất hiện của ung thư ruột, khối u đầu và cổ và ung thư hạch. Virus Epstein-Barr rất dễ bị nhiễm trùng, chủ yếu qua nước bọt và giọt nước, chẳng hạn như hôn, ho và chia sẻ thức ăn.
Làm gì để phát hiện sớm ung thư dạ dày?
Phát hiện ở giai đoạn sớm, ung thư dạ dày có tiên lượng tốt hơn nhiều so với giai đoạn tiến triển (90% sống sót sau 5 năm).
Ung thư dạ dày là một trong 5 bệnh ung thư thường gặp nhất tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Tại Việt Nam, năm 2018 có hơn 17.000 ca mắc mới và hơn 15.000 trường hợp tử vong vì căn bệnh này.
Việc tiến hành sàng lọc và điều trị dự phòng mang lại hiệu quả tích cực bởi ung thư dạ dày nếu phát hiện ở giai đoạn sớm thì vẫn có khả năng điều trị thành công. Tuy nhiên, tại nước ta tỉ lệ phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn còn cao, khiến cho việc điều trị gặp nhiều khó khăn, hiệu quả kém, kinh phí điều trị lớn.
Ung thư dạ dày giai đoạn sớm được định nghĩa là mức độ xâm lấn ung thư dạ dày chưa vượt qua lớp hạ niêm mạc. Ở giai đoạn này có tiên lượng tốt hơn nhiều so với ung thư dạ dày giai đoạn tiến triển (90% sống sót sau 5 năm).
Dưới đây bác sĩ Bệnh viện K đưa ra hướng dẫn các bước tầm soát ung thư dạ dày:
Bước 1: Khám lâm sàng
Đây là bước đầu tiên, cũng là bước quan trọng trong khám tầm soát ung thư dạ dày.
Bác sĩ sẽ hỏi các thông tin cụ thể về tuổi, tình trạng sức khỏe, bệnh sử cá nhân và gia đình nếu có, các triệu chứng biểu hiện bệnh nghi ngờ gặp phải... nhằm đánh giá nguy cơ mắc bệnh. Sau đó sẽ tiến hành khám lâm sàng phát hiện các dấu hiệu của bệnh.
Bước 2: Nội soi dạ dày
Bác sĩ sẽ sử dụng ống nội soi để đưa vào từ thực quản xuống đến dạ dày để quan sát bên trong. Ưu điểm của nội soi cho phép quan sát được các thay đổi của niêm mạc dạ dày và tiến hành sinh thiết qua nội soi để có chẩn đoán mô bệnh học, qua đó cho phép chẩn đoán các ung thư dạ dày tại chỗ hoặc xâm lấn.
Ngoài ra các tổn thương tiền ung thư cũng có thể thấy được trên nội soi như: viêm teo, loét, polyp hoặc các tổn thương dạng tăng sản biểu mô tuyến. Sinh thiết các tổn thương nghi ngờ cũng có thể phát hiện các tổn thương tiền ung thư trên mô bệnh học như viêm teo, tăng sản, dị sản, loạn sản...
Ngoài ra, nội soi cũng có thể đánh giá tình trạng có hay không có nhiễm Helocobacter Pylori (HP), một trong số những yếu tố nguy cơ gây ung thư dạ dày, giúp cho việc điều trị dự phòng.
Ung thư dạ dày là loại bệnh lý tiến triển khá nhanh, do đó trong sàng lọc, vai trò của nội soi dạ dày chủ yếu tập trung vào phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư.
Bước 3: Chụp cắt lớp vi tính (CT)
Bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân chụp CT. Bác sĩ chủ yếu dựa vào các hình ảnh để đánh giá tình trạng thương tổn của dạ dày, sự xâm lấn của khối u đến các bộ phận xung quanh.
Hơn nữa qua đó có thể đánh giá tình hình của bệnh nếu ung thư bắt đầu di căn đến các bộ phận khác trong cơ thể như: gan, hạch, ổ bụng, ổ phúc mạc...
Bước 4: Sinh thiết
Phương pháp này có thể được tiến hành ngay khi nội soi ở nơi có tổn thương tại niêm mạc dạ dày, sau đó tiến hành giải phẫu bệnh. Sinh thiết là thủ tục cần để chẩn đoán tế bào khối u có phải là ung thư hay không.
Toilet chẩn đoán ung thư từ "lấy dấu vân mông" Đây là một trong những nghiên cứu mới của một tiến sĩ khoa học người Mỹ. Bên cạnh chức năng thông thường, bệ xí này còn có khả năng nhận dạng "dấu vân mông" để chuẩn đoán nhiều bệnh ung thư. 1. Toilet nhận dạng và chẩn đoán ung thư? Tiến sĩ y khoa người Mỹ, Sanjiv Sam Gambhir cùng các cộng sự...