Ukraine bên bờ vực vỡ nợ
Chỉ còn chưa đầy hai tuần nữa sẽ tới hạn chót mà Ukraine phải thanh toán phần nợ nước ngoài.
Tuy nhiên, kết quả vòng đàm phán với các chủ nợ vào tháng trước cho thấy lập trường hai bên vẫn còn khoảng cách xa nhau. Nếu Ukraine không đạt được một thỏa thuận với các trái chủ trước thời hạn, Kiev sẽ rơi vào cảnh vỡ nợ.
Số tiền khoảng 23 tỷ USD là trọng tâm của các cuộc đàm phán này, chiếm khoảng 15% tổng số nợ mà chính phủ Ukraine chịu trách nhiệm. Vào năm 2022, Ukraine và các chủ nợ đã đồng ý tạm dừng các khoản thanh toán nợ sau cuộc xung đột với Nga bùng phát. Nhưng trong khi các chính phủ chủ nợ đồng ý hoãn các khoản thanh toán cho đến năm 2027, thì các trái chủ tư nhân vẫn chưa gia hạn thời gian đóng băng sau khi hết hạn vào ngày 1/8 tới đây.
Nền kinh tế của Ukraine bị ảnh hưởng nặng do chiến sự. Ảnh: Reuters
Vậy chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo? Ukraine có thể đạt được thỏa thuận tái cơ cấu mới hoặc đàm phán gia hạn thời gian đóng băng để có thêm thời gian. Nếu không, họ sẽ phải bắt đầu thanh toán trong vòng 10 ngày kể từ ngày 1/8 hoặc chính thức vỡ nợ. Tất nhiên không ai muốn Ukraine vỡ nợ. Đối với các trái chủ, giá trị tài sản của họ sẽ giảm mạnh. Đối với Ukraine, việc huy động tiền cho nỗ lực tái thiết sẽ khó khăn hơn khi nước này quay trở lại thị trường quốc tế. Và việc tái cơ cấu nợ trong tương lai có thể khó khăn hơn nếu các nhà đầu tư bán lại trái phiếu vỡ nợ cho người mua khác. Các trái chủ sẵn sàng nhượng bộ để tránh kịch bản trên, nhưng chính xác số nợ sẽ còn lại – và lịch trả nợ mới sẽ như thế nào – là điều mà các bên hiện đang tranh cãi.
Trước khi nổ ra xung đột, Ukraine có tình trạng nợ khá tốt, nợ chính phủ thấp chỉ 48,9% GDP vào cuối năm 2021. Lãi suất trả nợ trung bình khoảng 9%/năm đối với nợ trong nước và 4% đối với nợ nước ngoài. Tổng chi phí trả nợ bằng 2,9% GDP. Nhưng sự suy thoái của nền kinh tế Ukraine do cuộc xung đột với Nga, cùng với sự gia tăng đáng kể trong chi tiêu công, tăng từ 40% lên 75% GDP từ năm 2021 đến năm 2023, đã làm tăng đáng kể cả nợ trong và ngoài nước. Kết quả là đến cuối năm 2023, nợ công ở mức 84,4% GDP. Con số này thậm chí còn tồi tệ hơn nếu Mỹ không bổ sung ngân sách cho Ukraine với 22,85 tỷ USD dưới dạng tài trợ thay vì tín dụng trong năm 2022-2023. Năm 2022, Ukraine đã đạt được thỏa thuận với các chủ nợ về việc hoãn thanh toán gốc và lãi trái phiếu châu Âu trong giai đoạn 2022-2023. Tuy nhiên, vào năm 2024, tình hình đã khác. Năm nay Ukraine không nhận được tài trợ nào của phương Tây, trong khi đã đến lúc phải trả lãi cho trái phiếu châu Âu trong ba năm một lần (cho giai đoạn 2022-2024). Tình trạng này đã dẫn đến sự gia tăng chưa từng có trong chi phí trả nợ công lên tới 6,3% GDP, tương đương gần 12 tỷ USD vào năm 2024. Và nợ công vào cuối năm sẽ đạt gần 100% GDP. Đồng thời, chính sách lãi suất cao của Ngân hàng Quốc gia Ukraine đồng nghĩa với việc lãi suất trả nợ trong nước trung bình sẽ tăng từ 9 lên 13% trong hai năm.
Sau khi ký một chương trình 4 năm với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ukraine hiện đang thay thế khoản nợ 10 tỷ USD của IMF (nợ phát sinh trước chiến tranh với lãi suất 2 hoặc 3% mỗi năm) bằng một khoản tín dụng khác của IMF trị giá 15,6 tỷ USD (chịu lãi suất khoảng 8,5%/năm). Kết quả là, vào năm 2024, Ukraine, ngoài việc trả nợ gốc theo các chương trình cũ của IMF, sẽ phải chi trả khoảng 900 triệu USD tiền lãi các khoản nợ của IMF. Theo các tính toán, sau khi nhận được khoản vay 5,4 tỷ USD từ IMF vào năm 2024, Ukraine sẽ cần tăng các khoản thanh toán nợ vào năm 2025 lên tới 1,1-1,2 tỷ USD. Ngoài ra, còn có các trái phiếu liên kết với GDP phát hành năm 2015 của Ukraine, có giá trị đến năm 2041. Năm 2015, Kiev đã ký một thỏa thuận với các chủ nợ nhằm giảm nhẹ số nợ để đổi lấy trái phiếu, với điều kiện bắt buộc phải thanh toán nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế của Ukraine vượt quá 3% GDP, bắt đầu từ năm 2019. Tốc độ tăng GDP càng lớn thì khoản chi trả càng lớn. Trong điều kiện tái thiết sau chiến tranh, các khoản thanh toán cho các nghĩa vụ này có thể đạt tới 1-2 tỷ USD mỗi năm hoặc hơn.
Vào năm 2023, nền kinh tế Ukraine tăng trưởng 5,3%, điều đó có nghĩa là vào năm 2025, Ukraine sẽ phải trả 700-800 triệu USD tiền lãi “liên quan đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Ukraine” cho các chủ nợ. Do đó, khoảng một nửa viện trợ của Mỹ và EU cho Ukraine vào năm 2024 sẽ dùng để trả nợ cho các chủ nợ trong và ngoài Ukraine. Để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vào tháng 5 đến tháng 6/2024, Bộ Tài chính và các chủ nợ của Ukraine đã tổ chức các cuộc đàm phán về cơ cấu lại trên 20 tỷ USD khoản nợ (trái phiếu châu Âu) và sửa đổi điều kiện với các chứng khoán liên kết GDP. Cho đến nay các cuộc đàm phán vẫn chưa đưa đến bất kỳ quyết định chung nào. Nếu việc tái cơ cấu nợ không thành công trước ngày 1/8/2024, Ukraine sẽ phải trả khoảng 3,75 tỷ USD trái phiếu châu Âu vào cuối năm 2024. Nếu không, họ đối mặt kịch bản vỡ nợ. Để giảm thiểu nguy cơ Ukraine vỡ nợ trong vài năm tới, tổ chức nghiên cứu của Mỹ Wilson Center đề xuất Chính phủ Ukraine nên cơ cấu lại khoản nợ Eurobond, nhằm mục đích xóa nợ một phần, giảm thiểu các khoản thanh toán lãi và hoãn thời điểm bắt đầu thanh toán từ năm 2024 đến năm 2025. Những biện pháp này sẽ cho phép Kiev giải quyết các vấn đề tài chính trong năm nay. Kiev cũng nên tái cơ cấu (hoặc mua lại) chứng khoán liên kết với GDP của Ukraine cho đến năm 2041. Sự phục hồi sau chiến tranh của Ukraine sẽ bị hạn chế bởi thực tế là tăng trưởng kinh tế trong tương lai của nước này sẽ bị ràng buộc bởi nghĩa vụ trả 0,5-1% GDP mỗi năm cho loại chứng khoán liên kết GDP này. Bên cạnh đó, Ukraine phải đàm phán để tái cơ cấu – hoặc thậm chí hủy bỏ một phần – khoản nợ của IMF. Lãi suất cho khoản tín dụng này nên giảm từ 8-9% xuống mức trước chiến tranh là 2-3% mỗi năm. Và cuối cùng, chính quyền Kiev cần thay đổi chính sách của Ngân hàng Quốc gia Ukraine (NBU) nhằm giảm đáng kể lãi suất mà NBU trả cho chứng chỉ tiền gửi. Điều này sẽ làm tăng lợi nhuận mà NBU nộp vào ngân sách nhà nước, từ đó sẽ giảm chi phí vay trong nước mới và chi phí trả nợ trong nước trước đó.
Ukraine xoay sở trước hạn chót 1/8 để tránh vỡ nợ quốc gia
Trong lúc đang tuyệt vọng tìm kiếm nguồn tiền phục vụ nhu cầu ngân sách quốc phòng, Ukraine còn đối mặt với hạn chót ngày 1/8 phải thống nhất với các chủ nợ về phần nợ nước ngoài sẽ được xóa, nếu không Kiev sẽ rơi vào cảnh vỡ nợ.
Video đang HOT
Cảnh tàn phá do xung đột tại Izyum thuộc vùng Kharkiv, Ukraine, ngày 20/2/2023. Ảnh: AFP/TTXVN
Sau khi vòng đàm phán đầu tiên kết thúc vào tháng trước mà không đạt được thỏa thuận nào, Bộ trưởng Tài chính Ukraine Serhii Marchenko cho biết ông tin tưởng rằng một thỏa thuận sẽ đạt được trước thời hạn.
Tuy nhiên, một tài liệu được Bộ Tài chính công bố sau đàm phán cho thấy lập trường của hai bên vẫn còn khoảng cách xa nhau.
Số tiền khoảng 23 tỷ USD là trọng tâm của các cuộc đàm phán này, chiếm khoảng 15% tổng số nợ mà chính phủ Ukraine chịu trách nhiệm. Vào năm 2022, Ukraine và các chủ nợ đã đồng ý tạm dừng các khoản thanh toán nợ sau cuộc xung đột với Nga bùng phát. Nhưng trong khi các chính phủ chủ nợ đồng ý hoãn các khoản thanh toán cho đến năm 2027, thì các trái chủ tư nhân vẫn chưa gia hạn thời gian đóng băng sau khi hết hạn vào tháng 8 tới đây.
Vậy chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo? Ukraine có thể đạt được thỏa thuận tái cơ cấu mới hoặc đàm phán gia hạn thời gian đóng băng để có thêm thời gian. Nếu không, họ sẽ phải bắt đầu thanh toán trong vòng 10 ngày kể từ ngày 1/8 hoặc chính thức vỡ nợ.
Tất nhiên không ai muốn Ukraine vỡ nợ. Đối với các trái chủ, giá trị tài sản của họ sẽ giảm mạnh. Đối với Ukraine, việc huy động tiền cho nỗ lực tái thiết sẽ khó khăn hơn khi nước này quay trở lại thị trường quốc tế. Và việc tái cơ cấu nợ trong tương lai có thể khó khăn hơn nếu các nhà đầu tư bán lại trái phiếu vỡ nợ cho người mua khác.
Bộ trưởng Tài chính Ukraine Serhii Marchenko tại Hội nghị Phục hồi Ukraine ở London, Anh, ngày 21/6/2023. Ảnh: Bloomberg/Getty Images
Các trái chủ sẵn sàng nhượng bộ để tránh kịch bản trên, nhưng chính xác số nợ sẽ còn lại - và lịch trả nợ mới sẽ như thế nào - là điều mà các bên hiện đang tranh cãi.
Bức tranh nợ của Ukraine
Trước chiến tranh, Ukraine có tình trạng nợ khá tốt, nợ chính phủ thấp chỉ 48,9% GDP vào cuối năm 2021. Lãi suất trả nợ trung bình khoảng 9%/năm đối với nợ trong nước và 4% đối với nợ nước ngoài. các khoản nợ. Tổng chi phí trả nợ bằng 2,9% GDP.
Nhưng sự suy thoái của nền kinh tế Ukraine do cuộc xung đột với Nga, cùng với sự gia tăng đáng kể trong chi tiêu công, tăng từ 40% lên 75% GDP từ năm 2021 đến năm 2023, đã làm tăng đáng kể cả nợ trong và ngoài nước. Kết quả là đến cuối năm 2023, nợ công ở mức 84,4% GDP. Con số này thậm chí còn tồi tệ hơn nếu Mỹ không bổ sung ngân sách cho Ukraine với 22,85 tỷ USD dưới dạng tài trợ thay vì tín dụng trong năm 2022-2023.
Năm 2022, Ukraine đã đạt được thỏa thuận với các chủ nợ về việc hoãn thanh toán gốc và lãi trái phiếu châu Âu trong giai đoạn 2022-2023. Tuy nhiên, vào năm 2024, tình hình đã khác. Năm nay Ukraine không nhận được tài trợ nào của phương Tây, trong khi đã đến lúc phải trả lãi cho trái phiếu châu Âu trong ba năm một lần (cho giai đoạn 2022-2024).
Tình trạng này đã dẫn đến sự gia tăng chưa từng có trong chi phí trả nợ công lên tới 6,3% GDP, tương đương gần 12 tỷ USD vào năm 2024. Và nợ công vào cuối năm sẽ đạt gần 100% GDP. Đồng thời, chính sách lãi suất cao của Ngân hàng Quốc gia Ukraine đồng nghĩa với việc lãi suất trả nợ trong nước trung bình sẽ tăng từ 9 lên 13% trong hai năm.
Ukraine, having signed a four-year program with the IMF, is now replacing $10 billion of debt to the IMF (debt that was incurred before the war at rates of 2 or 3 percent per annum) with another IMF credit of $15.6 billion (bearing interest rates of about 8.5 percent per annum).
Ukraine, sau khi ký một chương trình 4 năm với IMF, hiện đang thay thế khoản nợ 10 tỷ USD của IMF (nợ phát sinh trước chiến tranh với lãi suất 2 hoặc 3% mỗi năm) bằng một khoản tín dụng khác của IMF trị giá 15,6 tỷ USD (chịu lãi suất khoảng 8,5%/năm). Kết quả là, vào năm 2024, Ukraine, ngoài việc trả nợ gốc theo các chương trình cũ của IMF, sẽ phải chi trả khoảng 900 triệu USD tiền lãi các khoản nợ của IMF. Theo các tính toán, sau khi nhận được khoản vay 5,4 tỷ USD từ IMF vào năm 2024, Ukraine sẽ cần tăng các khoản thanh toán nợ vào năm 2025 lên tới 1,1-1,2 tỷ USD.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron (trái) và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky tại cuộc gặp ở Paris ngày 8/2/2023. Ảnh: AFP/TTXVN
Ngoài ra, còn có các trái phiếu liên kết với GDP phát hành năm 2015 của Ukraine, có giá trị đến năm 2041. Năm 2015, Kiev đã ký một thỏa thuận với các chủ nợ nhằm giảm nhẹ số nợ để đổi lấy trái phiếu, với điều kiện bắt buộc phải thanh toán nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế của Ukraine vượt quá 3% GDP, bắt đầu từ năm 2019. Tốc độ tăng GDP càng lớn thì khoản chi trả càng lớn. Trong điều kiện tái thiết sau chiến tranh, các khoản thanh toán cho các nghĩa vụ này có thể đạt tới 1-2 tỷ USD mỗi năm hoặc hơn.
Vào năm 2023, nền kinh tế Ukraine tăng trưởng 5,3%, điều đó có nghĩa là vào năm 2025, Ukraine sẽ phải trả 700-800 triệu USD tiền lãi "liên quan đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Ukraine" cho các chủ nợ . Do đó, khoảng một nửa viện trợ của Mỹ và EU cho Ukraine vào năm 2024 sẽ dùng để trả nợ cho các chủ nợ trong và ngoài Ukraine.
Để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vào tháng 5 đến tháng 6/2024, Bộ Tài chính và các chủ nợ của Ukraine đã tổ chức các cuộc đàm phán về cơ cấu lại trên 20 tỷ USD khoản nợ (trái phiếu châu Âu) và sửa đổi điều kiện với các chứng khoán liên kết GDP. Cho đến nay các cuộc đàm phán vẫn chưa đưa đến bất kỳ quyết định chung nào. Nếu việc tái cơ cấu nợ không thành công trước ngày 1/8/2024, Ukraine sẽ phải trả khoảng 3,75 tỷ USD trái phiếu châu Âu vào cuối năm 2024. Nếu không, họ đối mặt kịch bản vỡ nợ.
Cảnh tàn phá do xung đột tại Izyum thuộc vùng Kharkiv, Ukraine, ngày 20/2/2023. AFP/TTXVN
Các bước để tránh vỡ nợ
Để giảm thiểu nguy cơ Ukraine vỡ nợ trong vài năm tới, tổ chức nghiên cứu của Mỹ Wilson Center đề xuất chính phủ nên thực hiện các bước sau:
Thứ nhất, cơ cấu lại khoản nợ Eurobond, nhằm mục đích xóa nợ một phần, giảm thiểu các khoản thanh toán lãi và hoãn thời điểm bắt đầu thanh toán từ năm 2024 đến năm 2025. Những biện pháp này sẽ cho phép Kiev giải quyết các vấn đề tài chính trong năm nay.
Thứ hai, tái cơ cấu (hoặc mua lại) chứng khoán liên kết với GDP của Ukraine cho đến năm 2041. Sự phục hồi sau chiến tranh của Ukraine sẽ bị hạn chế bởi thực tế là tăng trưởng kinh tế trong tương lai của nước này sẽ bị ràng buộc bởi nghĩa vụ trả 0,5-1% GDP mỗi năm cho loại chứng khoán liên kết GDP này.
Thứ ba, đàm phán để tái cơ cấu - hoặc thậm chí hủy bỏ một phần - khoản nợ của IMF. Lãi suất cho khoản tín dụng này nên giảm từ 8-9% xuống mức trước chiến tranh là 2-3% mỗi năm.
Cuối cùng, thay đổi chính sách của Ngân hàng Quốc gia Ukraine (NBU) nhằm giảm đáng kể lãi suất mà NBU trả cho chứng chỉ tiền gửi. Điều này sẽ làm tăng lợi nhuận mà NBU nộp vào ngân sách nhà nước, từ đó sẽ giảm chi phí vay trong nước mới và chi phí trả nợ trong nước trước đó.
Thái Lan đối mặt nguy cơ vỡ nợ thẻ tín dụng Theo phóng viên TTXVN tại Bangkok, nguy cơ vỡ nợ đối với các khoản vay bằng thẻ tín dụng tại Thái Lan đã tăng đáng kể trong quý đầu năm nay, do Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BoT) quy định tỷ lệ thanh toán tối thiểu cao hơn. Trong quý đầu của năm 2024, các khoản cho vay đặc biệt (SM), được...