Từ học sinh cá biệt, cựu binh chiến tranh VN, trở thành tỷ phú thế giới
Hành trình lọt top 400 người giàu nhất thế giới của Bob Parsons trải qua nhiều thăng trầm như rất nhiều tỷ phú tự thân khác.
Trước khi thành lập GoDaddy, ông là một kế toán xông xáo, một tay súng từng tham chiến ở Việt Nam và là một học sinh ngỗ nghịch khi còn đến trường.
Bob Parsons trải qua hành trình đầy gian nan để trở thành 1 trong 400 tỷ phú giàu nhất thế giới.
Học sinh “cá biệt”
Trong một buổi tọa đàm tại thủ đô Washington năm 2015, tỷ phú Mỹ Bob Parsons chia sẻ về những bài học vô giá đã góp phần tạo nên thành công của ông ngày nay. Khi còn học lớp 5, Parsons được bố gửi đến một trường Công giáo truyền thống ở Baltimore. Tại đây, giáo viên chính là những nữ tu mặc đồ trùm kín người.
“Nếu tôi ở trường ngày nay, tôi sẽ bị tiêm đầy thuốc chống tăng động. Hồi ấy tôi chỉ là một đứa hay gây phiền toái với bạn học”.
Parsons nói rằng ông thực ra đã bị trượt cuối lớp 5 nhưng rồi ông đánh liều bắt chước những người đã đỗ khác, lừa bố mẹ. Suốt cả mùa hè, cậu bé Parsons giấu nhẹm việc mình bị đánh trượt. Đó là mùa hè dài nhất trong cuộc đời Parsons, ông lúc nào cũng thấp thỏm lo nhà trường gọi về nhà hoặc bố mẹ phát hiện ra. Nhưng may mắn cho cậu bé khi ấy, giáo viên Sister Brenda quyết định đổi ý, cho cậu lên lớp 6.
“Đó là cách mà tôi bước vào lớp 6 với trình độ lớp 4″, tỷ phú nói với đám đông đang cười rộ khi tham gia tọa đàm.
Theo ông, “đôi khi bạn được trao cho một cơ hội và phải đền đáp lại nó”.
Parsons tiếp tục vật lộn trong trường học và điểm số của cậu bé thậm chí còn tội tệ hơn vào năm cuối. Ông quyết định đăng ký tham gia Thủy quân lục chiến với một vài người bạn.
Vị tỷ phú Mỹ có tài năng kinh doanh thiên phú và niềm đam mê bất tận với môn golf
7 tháng sau khi tham gia tập huấn, Parsons gia nhập đại đội Delta, tiểu đoàn Thứ nhất, Thủy quân lục chiến 26 tham chiến tại Việt Nam. Khi ấy, họ đóng quân trong một pháo đài cũ của Pháp có tên Đồi 190.
“Khi tôi đến và ngồi xuống một trong những bức tường cũ của Pháp tại đó, tôi nhìn xuống thung lũng và thấy nó thật đẹp. Ở đó, tôi đã có một cuộc tấn công đáng lo duy nhất trong đời”.
Ông là thành viên của một đội thay thế. Đồng đội của ông đã bị bắn hạ hoặc bị thương trong các cuộc phục kích. Người phục vụ lâu nhất trong đội của Parsons mới ở đây có 2 tháng.
Tay ông lạnh ngắt, cả người khó thở. Khi đó Parsons chỉ có thể nghĩ: “Tôi sẽ chết ở đây. Khi bạn đối diện với cái chết của chính mình thì đó không phải là điều đơn giản”. Khi ngồi trên bức tường cũ, Parsons quyết định: Dù cho xảy ra điều gì thì ông sẽ làm mọi thứ tốt nhất có thể và cố gắng sống sót cho đến khi có thư gọi vào sáng hôm sau. Nghĩ được như vậy, Parsons đã trút bỏ được gánh nặng.
Sau khi tham chiến tại Việt Nam, Parsons rút ra được một bài học đó là “Nếu bạn có thể chấp nhận điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra và sống chung với nó, bạn sẽ trở nên rất thiết thực”. Chính việc chấp nhận thực tế này đã góp phần tạo nên thành công của vị tỷ phú ngày hôm nay.
Bob Parsons từng có thời gian tham chiến tại Việt Nam.
Từ cựu binh thành tỷ phú
Video đang HOT
Sau một tháng làm lính chiến, Parsons vướng phải bẫy mìn khi đang đi tuần tra và bị thương. Ông trải qua một thời gian điều trị rồi được điều chuyển sang sư đoàn tình báo.
Khi trở về nhà, ông đăng ký học tại ĐH Baltimore. Đây là ngôi trường nhận các cựu binh Mỹ mà không cần thi khảo sát hoặc đòi bảng điểm trung học. Ông học chuyên ngành kế toán chỉ vì đây là chuyên ngành đầu tiên được liệt kê trong sách. Parsons có năng khiếu về toán rất tự nhiên. Tài năng kết hợp với tính kỷ luật của thủy quân lục chiến đã giúp ông tốt nghiệp trường Magna Cum Laude.
Parsons từng chia sẻ rằng Thủy quân lục chiến đã dạy ông rằng khi bạn chịu trách nhiệm việc gì thì phải làm hết sức có thể. Khi nói gì thì phải nói điều có nghĩa.
Sau khi tốt nghiệp, Parsons làm kế toán nội bộ cho một công ty ở thành phố Reedwood, một trong những ngoại ô của Thung lũng Silicon. Tại đó, khi đến thăm một văn phòng của công ty gần khuôn viên Stanford, ông đã mua một cuốn sách về ngôn ngữ lập trình cơ bản và bắt đầu tìm hiểu.
Ông trở nên đam mê máy tính điên cuồng hơn, tự mày mò và phát triển phần mềm của riêng mình. Đến năm 1984 ông đã phát triển một phần mềm kế toán cá nhân có tên Money Counts.
Sau khi thành công trong sự nghiệp, Bob Parsons tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực golf để thỏa mãn đam mê.
Nhưng phần mềm này đã gặp khó khăn khi được tung ra thị trường. Năm đầu tiên, Parsons mất 15.000 USD tiền tiết kiệm, năm tiếp theo ông mất 25.000 USD. Có rất ít người nghe nói về sản phẩm phần mềm kế toán này. Hơn nữa, Parsons chỉ muốn sản phẩm này hoạt động chứ không lo về việc kiếm tiền. Khi lướt các tạp chí như PC Mag, Byte, ông mong một ngày nào đó quảng cáo của công ty ông xuất hiện bên cạnh những gã khổng lồ như IBM, Compaq.
Cuối cùng, ông chi 5.000 USD để mua quảng cáo trên trang nhất và trang bìa của một ấn phẩm máy tính khu vực. Trong đó, ông quảng cáo phần mềm của mình giá chưa đến 12 USD, không hạn chế sao chép hay bất cứ thứ gì khác. Và chắc chắn quảng cáo này có tác dụng.
“Chúng tôi đã tăng gấp đôi số tiền của mình cho quảng cáo đó”. Vì vậy, Parson đã đưa quảng cáo đến các ấn phẩm lớn hơn nữa và xem doanh số bán hàng tăng lên chóng mặt. “Đó là năm tôi phát hiện ra cách để tiếp thị”, ông nói.
Doanh thu cuối cùng tăng lên hơn 100 triệu USD, ông và vợ đã bán công ty cho Intuit với giá 64 triệu USD. Trong nghệ thuật kinh doanh của mình, Parsons quan niệm rằng nếu quảng cáo nhỏ không có tác dụng thì hãy chi tiền cho quảng cáo lớn.
Tất nhiên, thành công lớn nhất của Parson chính là GoDaddy, doanh nghiệp đăng ký tên miền mà ông thành lập năm 1997. Nhưng 4 năm kinh doanh, ông gần như muốn bỏ cuộc. Tỷ phú Mỹ đã mất tất cả 6 triệu USD cho dự án này. Có rất ít người biết đến GoDaddy. Và nhiều đối thủ cạnh tranh đã vượt mặt ông khi chi nhiều tiền hơn cho các quảng cáo lớn nhỏ.
Bob Parsons cũng là một nhà từ thiện hoạt động tích cực. Ông đã ký vào cam kết The Giving Pledge cho đi ít nhất một nửa tài sản của mình.
Vào năm 2001, khi mà tương lai kinh doanh lâm nguy, ông quyết định đi nghỉ ở Hawaii và suy nghĩ xem có nên từ bỏ mọi thứ, giữ lại 6 triệu USD. Nhưng rồi nền kinh tế sụp đổ, các đối thủ của Parsons không có tiền, mức giá mà ông đưa ra lúc này lại là điều tuyệt vời đối với các khách hàng.
Vào tháng 7.2011, Parsons đã bán khoảng 70% cổ phần của GoDaddy cho một tập đoàn cổ phần tư nhân và từ chức CEO. Đến tháng 6.2014, ông rời khỏi vị trí Chủ tịch điều hành và hiện chỉ là thành viên trong Hội đồng quản trị của GoDaddy. Parsons sở hữu 28% cổ phần và là cổ đông lớn nhất công ty.
Tính đến tháng 10.2017, Parsons có giá trị tài sản ròng ước tính 2,6 tỷ USD và được xếp hạng 315 trong danh sách 400 người giàu nhất thế giới của Forbes.
Ngoài GoDaddy, Parsons còn sáng lập và là Giám đốc điều hành của YAM Worldwide, Inc, doanh nghiệp hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau như thể thao, golf, bất động sản và tiếp thị. Năm 2012, ông cùng vợ, Renee Parsons lập ra quỹ Bob & Renee Parsons để cung cấp tiền cho các tổ chức phi lợi nhuận. Tháng 12.2013, vợ chồng tỷ phú cũng đã ký vào cam kết The Giving Pledge để sẵn sàng dành ít nhất một nửa số tài sản của mình cho hoạt động từ thiện.
Ngoài ra, khi nhắc đến Bob Parsons, người ta sẽ không thể bỏ qua việc đây là một tỷ phú mê golf bất tận. Ông từng cho tiết lộ mình có thể bỏ họp để đi chơi golf. Năm 2013, tỷ phú Mỹ đã mua lại một sân golf để phục vụ niềm đam mê của mình. Đến năm 2015, ông cho ra mắt công ty Parsons Xtreme Golf (PXG) chuyên sản xuất gậy golf cao cấp. Bên cạnh sở thích với bộ môn thể thao quý tộc này, Parsons còn yêu cuồng nhiệt những chiếc mô tô đầy cá tính. Trước đó báo chí từng đưa tin ông sơ hữu đến 18 chiếc xe “quái thú” để thỏa mãn thú chơi của mình.
Năm 2017, tỷ phú Bob Parsons đã quay lại Việt Nam sau gần 50 năm kể từ thời chiến tranh. Tại gala Hội nghị golf châu Á Thái Bình Dương (APGS 2017), ông tuyên bố đóng góp 200.000 USD vào quỹ từ thiện hỗ trợ trẻ em Việt Nam.
100 nghìn USD trong số đó đóng góp vào quĩ của giải golf từ thiện Swing for the Kids, 100 nghìn USD còn lại dành cho cho quỹ “Cặp lá yêu thương” nhằm giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Số tiền này chỉ là một phần trong kế hoạch đóng góp cho quĩ từ thiện của vị tỷ phú này.
Theo Danviet
5 lần Mỹ dùng đến sức mạnh quân sự và phải nhận kết cục thảm hại
Mỹ hiện là quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới, với mạng lưới đồng minh trải dài từ tây bán cầu cho đến vịnh Ba Tư, nhưng không phải là Mỹ chưa từng nếm mùi thất bại quân sự.
Quân đội Mỹ hiện là lực lượng hùng mạnh nhất thế giới.
Theo National Interest, lịch sử đã cho thấy cường quốc quân sự như Mỹ cũng từng gặp phải sai lầm chiến lược và tổn hại về uy tín.
Dưới đây là 5 lần Mỹ dùng tới sức mạnh vũ lực và đều dẫn đến kết cục không mấy sáng sủa.
Việt Nam (1962-1975)
Theo tác giả Daniel R. DePetris, không một cuộc chiến nào gây tiêu cực như cuộc chiến kéo dài hơn một thập kỷ của Mỹ ở Việt Nam. Mọi chuyện bắt đầu từ khi Mỹ cố vấn cho lực lượng miền Nam Việt Nam từ đầu những năm 1960.
Kết quả là Mỹ bị sa lầy vào cuộc chiến tiêu tốn tiền của, sinh mạng của 58.000 lính Mỹ, khiến người dân đứng lên phản đối chính quyền.
Trong hai nhiệm kỳ tổng thống Mỹ sau khi tham gia chiến tranh, Washington tỏ ra bất lực trước chiến thuật du kích của miền bắc Việt Nam, buộc các nhà lập pháp phải đưa ra giải pháp rút quân toàn diện.
Cuộc chiến kết thúc với sự thất bại muối mặt, và cuộc di tản quy mô lớn bắt đầu từ nóc nhà Đại sứ quán Mỹ. Đến năm 1975, quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, thống nhất đất nước.
Hàng thập kỷ sau đó, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara thừa nhận sai lầm của chính quyền Tổng thống Johnson. "Chúng tôi đã lầm. Chúng tôi đã phóng đại mối đe dọa đối với nước Mỹ về những hành động của đối phương".
Liban (1982-1984)
Năm 1982, Liban không còn là một quốc gia độc lập. Lực lượng Israel, Palestine và Syria cạnh tranh quyền lực lẫn nhau. Lo ngại về một cuộc chiến Ả Rập-Israel khác khiến Tổng thống Mỹ khi đó là Ronald Reagan quyết định hành động.
Reagan ký lệnh đưa quân đội Mỹ đến Liban với vai trò lực lượng gìn giữ hòa bình để "chính phủ Liban có thể tăng cường khả năng kiểm soát, quản lý và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ"
Tình hình ở Liban cho thấy quốc gia này không sẵn sàng cho bất cứ một giải pháp hòa bình nào. Các lực lượng địa phương do nước ngoài hậu thuẫn vẫn tiếp tục thống trị.
Lực lượng Palestine không chịu rút lui, Syria cũng vậy, trong khi lính thủy đánh bộ Mỹ trở thành mục tiêu của những kẻ đánh bom tự sát. Đỉnh điểm là việc phi công Mỹ bị bắn rơi, bắt sống khiến các nhà lập pháp ở Washington muốn rút quân toàn diện.
Kết quả là Reagan đã ra lệnh rút quân đội Mỹ khỏi Liban vào năm 1984. Quân đội Mỹ tổng cộng mất 265 binh sĩ ở Liban và 159 người khác bị thương.
Iraq (2003-2011)
Lính Mỹ tuần tra ở Iraq năm 2003.
Dù bớt đẫm máu hơn cuộc phiêu lưu sai lầm của Mỹ đến Việt Nam, chiến tranh Iraq vẫn được coi là một trong những thảm họa về chiến lược nhất của Mỹ.
Mục đích của cuộc xâm lược là lật đổ chính quyền Saddam Hussein và dựng nên chính quyền thân Mỹ ở Baghdad.
Chính quyền Tổng thống Mỹ Bush khi đó tự tin rằng có thể chiến tranh chớp nhoáng, hoàn thành mục tiêu trong vài tuần. Công cuộc tái thiết Iraq sẽ sử dụng chính khoản lợi nhuận mà Baghdad thu được từ bán dầu mỏ.
Nhưng không một quan chức Mỹ nào nhận thấy làn sóng phiến quân Hồi giáo dòng Sunni và Shia trỗi dậy sau khi Saddam Hussein bị lật đổ. Đó là cơ sở để các nhóm Hồi giáo cực đoan như Al Qaeda, IS tiếp tục trỗi dậy, lan sang các quốc gia lân cận như Iraq.
Nền chính trị Iraq cũng trở nên bất ổn hơn bao giờ hết khi các quan chức, sỹ quan quân đội dính vào tham nhũng. Theo thống kê của Đại học Brown ở Mỹ, nước Mỹ đã tiêu tốn 822 tỷ USD vào cuộc chiến Iraq kể từ năm 2003.
Libya (2011)
Nhà độc tài Muammar el-Gaddafi từ lâu đã trở thành cái gai trong mắt phương Tây. Việc Gaddafi đàn áp các cuộc biểu tình ôn hòa của người dân sau 40 năm nắm quyền được coi là "giọt nước tràn ly".
Tháng 3.2011, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết bảo vệ người dân Libya bằng mọi cách, bao gồm cả việc sử dụng vũ lực. Sau vài tuần, liên quân NATO đã chuyển từ mục đích bảo vệ dân thường sang lật đổ chế độ Gaddafi.
Tháng 10.2011, nhà độc tài Libya bị sát hại cùng với hàng trăm người trung thành, khi đang tìm cách ẩn náu trước sự truy lùng của phe nổi dậy.
Libya kể từ đó rơi vào hỗn loạn. Chính phủ hợp pháp do Liên Hợp Quốc công nhận gần như chỉ kiểm soát được thủ đô Tripoli. Những vùng đất còn lại do vô số các lực lượng vũ trang khác nhau kiểm soát.
Nguồn dự trữ dầu mỏ ở Libya là nguyên nhân các phe phái không ngừng triệt hạ lẫn nhau. Các nước Ả Rập như UAE, Ai Cập, Qatar cũng can thiệp vào tình hình Libya vì mục đích riêng.
Ngày nay, Libya trở thành vùng đệm để người di cư từ châu Phi sang châu Âu. Mỹ không đạt được bất cứ lợi ích an ninh nào từ cuộc chiến ở Libya.
Afghanistan (2001-nay)
Chiến trường Afghanistan đã trở thành gánh nặng mà không một Tổng thống Mỹ nào muốn thừa nhận thất bại.
Vụ khủng bố 11.9.2001 ở New York tạo nên làn sóng bất bình, giận dữ của công chúng trong nước. Kết quả là chính quyền Bush nhanh chóng phát động cuộc chiến tranh nhằm vào Taliban ở Afghanistan, với cáo buộc che giấu thành viên nhóm khủng bố Al-Qaeda.
Thay vì thu dọn đồ đạc và trở quê hương sau khi chiến dịch hoàn tất, Washington lại quyết định làm một cuộc thí nghiệm xã hội ở Afghanistan.
Đó là xây dựng chính quyền theo kiểu phương Tây thay vì tập trung truy quét nốt tàn dư Al-Qaeda. Binh sĩ Mỹ đóng vai trò bảo vệ cho một sứ mệnh chính trị mới.
Hơn 17 năm sau, Afghanistan vẫn hoàn toàn bất ổn. 14.000 lính Mỹ vẫn đóng quân thường trực ở quốc gia này. Chính quyền Afghanistan phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn lực từ nước ngoài, trong khi giới lãnh đạo và sỹ quan quân đội hết sức yếu kém.
Ước tính 30.000 lính Afghanistan đã thiệt mạng trong trao tranh với Taliban kể từ năm 2015. Tỷ lệ binh sĩ thiệt mạng cao đến mức các thanh niên Afghanistan rời quân ngũ ngay khi đã thực hiện xong nghĩa vụ quân sự. Nhiều người khác thậm chí còn đào ngũ và bỏ trốn.
Không một chính quyền Tổng thống Mỹ nào muốn thừa nhận sự sa lầy ở Afghanistan dù Tổng thống Mỹ Donald Trump đã nhắc đến chuyện rút quân. Nhưng nếu quân đội Mỹ rời đi, Taliban có thể lớn mạnh trở lại và nắm quyền lãnh đạo đất nước, giống như những gì từng xảy ra trong quá khứ.
Tác giả Daniel R. DePetris kết luận, đây là những bài học rõ ràng với các nhà lập pháp Mỹ ở Washington. Nếu quân đội Mỹ một ngày kia có tham gia vào cuộc chiến mới thì đó hãy là một cuộc chiến có mục đích rõ ràng.
Theo Danviet
Việt Nam hồi hương hai bộ hài cốt quân nhân Mỹ Lễ hồi hương hai bộ hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam hôm nay diễn ra tại sân bay quốc tế Đà Nẵng. Hài cốt lính Mỹ được hồi hương về nước từ sân bay quốc tế Đà Nẵng. Ảnh: Bộ Ngoại giao Việt Nam. Đại diện Việt Nam hôm nay bàn giao cho đại diện Mỹ...