TTCK có “lờn thuốc” giảm lãi suất?
Trong động thái đã được dự tính trước, NHNN ngày 30-9 đã quyết định lần thứ 3 trong năm 2020 giảm các mức lãi suất điều hành. Đây là tin vui với thị trường chứng khoán (TTCK), nhưng thuần túy chỉ là yếu tố tâm lý. Mặt bằng lãi suất đã thấp hơn so với quy định và dòng vốn dồi dào chảy vào thị trường đã thể hiện trong thời gian dài.
Chính sách chỉ là thừa nhận thực tế
Sau 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành, tới đầu tháng 7 nhiều báo cáo phân tích vĩ mô đều nhận định khó có đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo. Chẳng hạn, báo cáo của CTCK KB Việt Nam thời điểm đó nhận định: “Chúng tôi đ.ánh giá thấp khả năng NHNN sẽ hạ lãi suất điều hành thêm lần nữa trong nửa cuối năm 2020, khi áp lực lạm phát đang có dấu hiệu tăng cũng như hoạt động kinh tế trong nước đã dần hồi phục”.
CTCK Bảo Việt dự báo trong nửa cuối năm 2020, NHNN sẽ không chú trọng mục tiêu giảm thêm lãi suất điều hành. Thay vào đó, NHNN sẽ chuyển mục tiêu từ cố gắng giảm lãi suất sang các mục tiêu khác, như tháo gỡ các rào cản khiến doanh nghiệp khó tiếp cận vốn sau dịch Covid-19, nới room tín dụng cho các NH, thậm chí tái cấp vốn cho các dự án có độ lan tỏa cao.
“Liều thuốc” lãi suất sẽ ngấm trong dài hạn khi các điều kiện cho phép, doanh nghiệp hấp thụ được vốn và đó mới là thời điểm TTCK bùng nổ để phản ánh hiệu quả thực sự.
Thế nhưng đợt tái bùng phát dịch Covid-19 vào cuối tháng 7 đã khiến tình thế thay đổi. Hoạt động kinh doanh tiếp tục khó khăn khiến nhu cầu vay vốn cũng như khả năng vay vốn hạn chế. Thanh khoản quá dồi dào trong hệ thống NH khiến mức lãi suất huy động thực tế tiếp tục giảm sâu hơn. Nhiều NH từ giữa tháng 8 đã duy trì biểu lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng ở mức dưới 4%/năm. Vì vậy, khi quy định mới nhất vừa ban hành ép trần lãi suất t.iền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng từ 4,25%/năm xuống 4%/năm đối với các NHTM chỉ là sự công nhận thực tế.
Nói cách khác, từ những gì các NH đang áp dụng 2 tháng nay, TTCK đã dự đoán sẽ có thêm đợt cắt giảm lãi suất và điều đó đã xảy ra. Ảnh hưởng trên thực tế trong ngắn hạn đối với TTCK sẽ bị giảm thiểu vì tác động nếu có, đã xảy ra từ trước khi NHNN ban hành quyết định chính thức. Những phản ứng ngắn hạn trên TTCK không phản ánh được quan điểm về xu hướng nới lỏng t.iền tệ trong dài hạn. Chính sách thường có độ trễ nhất định và những gì phản ánh trên TTCK thể hiện khả năng dự báo đúng trong ngắn hạn.
Video đang HOT
Thực vậy, những đợt cắt giảm lãi suất trong tháng 3 và tháng 5 vừa qua đều gắn liền với nhịp tăng trưởng khá ấn tượng của TTCK. VN Index trong tháng 4 tăng trưởng tốt nhất tới 20%, trong tháng 5 và đầu tháng 6 tăng trưởng tốt nhất hơn 18%. Chỉ số này trong tháng 8 và tháng 9 cũng tăng trưởng hơn 14% dù chưa có quyết định giảm lãi suất.
Lý do đơn giản, mặt bằng lãi suất huy động đã thấp sẵn và thanh khoản của hệ thống quá dồi dào. TTCK đã phản ánh thực tế này nên việc “lờn thuốc” là điều đương nhiên. Nếu người gửi tiết kiệm không mặn mà với mức lãi suất quá thấp đang được áp dụng, muốn di chuyển dòng t.iền sang kênh đầu tư chứng khoán họ đã thực hiện rồi. Bằng chứng, trong tháng 7 và tháng 8, riêng nhà đầu tư cá nhân đã mở mới trên 55.300 tài khoản.
“Thuốc” sẽ ngấm trong dài hạn
Đ.ánh giá về quyết định giảm lãi suất lần thứ 3, CTCK Bản Việt cho rằng sẽ không có tác động nhiều tới TTCK. CTCK Bảo Việt nhận định quyết định giảm lãi suất điều hành thêm 0,5% của NHNN không có quá nhiều tác động đối với mặt bằng lãi suất hiện nay trên thị trường. Động thái này phần nhiều phản ánh nỗ lực đồng hành, hỗ trợ nền kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP trong quý cuối năm. Về cơ bản, trong bối cảnh hiện nay, chính sách t.iền tệ nới lỏng có tác động tương đối hạn chế tới tổng cầu. Tuy nhiên về dài hạn, mặt bằng lãi suất thấp luôn là “liều thuốc bổ” đối với hoạt động đầu cơ tài sản rủi ro như chứng khoán. Điểm khác biệt lớn nhất hạn chế tác động tốt của việc giảm lãi suất tới TTCK ở thời điểm hiện tại, là không giải quyết được vấn đề tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp.
Trong điều kiện bình thường, TTCK hào hứng với mặt bằng lãi suất thấp không hẳn chỉ do nhà đầu tư dễ vay mượn để đầu cơ cổ phiếu, hay có hiệu ứng từ sự dịch chuyển dòng t.iền tiết kiệm sang kênh đầu tư này làm tăng tổng cầu. Yếu tố quan trọng hơn, thị trường đ.ánh giá khả năng vay mượn vốn rẻ sẽ giúp doanh nghiệp có triển vọng tăng trưởng cao hơn. Lợi nhuận cao khiến giá cổ phiếu trở nên rẻ trong tương lai. Thế nhưng ngắn hạn lúc này, dưới tác động của dịch bệnh, nguồn vốn rẻ không giúp doanh nghiệp tăng trưởng, chỉ làm ứ đọng vốn trong hệ thống NH. Mặt bằng lãi suất qua đêm liên NH từ đầu tháng 8 đã xuống dưới ngưỡng 0,2%/năm và từ đầu tháng 9 chưa có ngày nào quá 0,16%/năm, thậm chí 2 tuần cuối tháng 9 còn duy trì 0,11%/năm.
Doanh nghiệp không mở rộng sản xuất, thậm chí thu hẹp, không có nhu cầu vay vốn hay không đủ điều kiện vay vốn, nên lãi suất thấp cũng trở nên vô ích. Tăng trưởng tín dụng đến 22-9 chỉ 5,12%, so với mức tăng 10,3% trong 9 tháng 2018 và 9,4% trong 9 tháng 2019. Điều này chỉ thay đổi khi dịch bệnh được kiểm soát, hoạt động kinh tế trở lại bình thường.
Nói cách khác, “liều thuốc” giảm lãi suất đang không thể hiện hết hiệu lực bởi dịch bệnh. TTCK có thể tăng ngắn hạn do lạm phát về dòng t.iền nhưng cũng không thể vượt quá xa triển vọng cơ bản. “Liều thuốc” lãi suất sẽ ngấm trong dài hạn khi các điều kiện cho phép, doanh nghiệp hấp thụ được vốn và đó mới là thời điểm TTCK bùng nổ để phản ánh hiệu quả thực sự.
Chỗ khát vốn, nơi ứ t.iền: Hàng tỷ USD ách tắc, 'biết rồi nói mãi'
Doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm trên 90% tổng số DN cả nước rất khó khăn tiếp cận được nguồn vốn từ ngân hàng. Nguyên nhân vẫn là những vướng mắc cũ mà cả DN và NH không thể vượt ra ngoài quy định.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng đến ngày 16/6 đạt 2,13%, thấp xa so với 5,7% cùng kỳ năm trước. Đáng lưu ý, cho vay các DN nhỏ và vừa (DNNVV) tăng trưởng giảm 0,7%.
Doanh nghiệp "khát" vốn
Với tăng trưởng tín dụng âm, cũng có nghĩa là tất cả những DNNVV, chiếm trên 90% tổng số DN cả nước, không thể tiếp cận được nguồn vốn từ ngân hàng.
Nhiều DNNVV trên cả nước cho hay có nhu cầu về vốn, muốn vay từ ngân hàng nhưng không được. Ông Bùi Ngọc Tường, Tập đoàn Đầu tư nước sạch và Môi trường Hùng Thành (Hà Nội), chia sẻ, DN đang quản lý 22 nhà máy nước sạch trên khắp cả nước, thuộc nhóm DNNVV, được ưu tiên. Hơn nữa, DN chưa từng có nợ xấu, nợ quá hạn tại các ngân hàng, nhưng nay muốn vay thêm vốn để khôi phục và mở rộng sản xuất cũng không được.
DN nhỏ và vừa hiện không thể tiếp cận được nguồn vốn từ ngân hàng.
Mỗi tháng, công ty có khoảng 2 tỷ đồng chảy vào tài khoản tại ngân hàng Agribank, chi nhánh Long Biên. Nhưng 10 năm nay, DN chưa vay được đồng vốn nào tại ngân hàng này, trong khi nhu cầu vay vốn là rất lớn. Ngân hàng đòi hỏi DN phải có tài sản thế chấp và không chấp nhận thế chấp là tài sản hình thành trong tương lai, khiến cánh cửa vay vốn của bị thu hẹp lại, ông Tường kể.
Còn ông Dương Văn Dân, Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư Bigsun Việt Nam, thừa nhận, DNNVV thiếu kinh nghiệm quản trị, thiếu tài sản bảo đảm và 90% gặp vấn đề về vốn, nên khi rơi vào khó khăn cụ thể là bị nhảy nhóm nợ, càng khó tiếp cận nguồn vốn. Vì vậy, khi có nguồn t.iền về, ngân hàng chỉ muốn thu lại khoản đã cho vay, chứ không muốn cho vay thêm.
Ông Huỳnh Văn Sơn, Tổng giám đốc Công ty CP Ngôi Sao Biển Sài Gòn, nói thêm, nhu cầu về vốn của DN hầu như lúc nào cũng có. Đặc biệt, khi hoạt động ảm đạm do dịch Covid-19 gây ra, dòng t.iền cạn kiệt thì nhu cầu càng gia tăng để duy trì và phát triển. Thế nhưng, nếu DN không phải là khách hàng "ruột", sẽ vô cùng khó tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Vì vậy, chuyện vay được t.iền với lãi suất thấp hiếm khi xảy ra với nhiều DN.
Ông Trần Đình Trọng, Giám đốc điều hành một công ty hoạt động trong lĩnh vực giáo dục ngoại ngữ ở TP. Biên Hòa Đồng Nai, than thở, dịch Covid-19 tác động trực tiếp tới tình hình hoạt động, doanh thu của DN. Công ty phải chấp nhận bù lỗ các khoản chi phí liên quan để sống sót. Công ty rất mong được vay vốn với lãi suất thấp nhưng vẫn chưa được.
Tìm đâu lãi suất thấp cho DNNVV
Không vay được, nhiều DNNVV cũng chưa được được giảm lãi suất với khoản vay hiện hữu.
Theo ông Lâm Đại Vinh, Giám đốc Công ty TNHH vận tải Lâm Vinh (TP.HCM), công ty vẫn phải trả lãi vay trung dài hạn bình quân 10-11%/năm, không thay đổi so với trước đây. Một số ngân hàng cho rằng chỉ có vay mới thì lãi suất sẽ thấp hơn. Thế nhưng, tài sản của công ty đã cầm cố cho những khoản vay cũ thì không thể nào đáp ứng đủ điều kiện để vay mới.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, cần mở rộng quy mô các Quỹ bảo lãnh tín dụng, để hoạt động hiệu quả hơn
Ông Trịnh Xuân Toàn, Giám đốc Công ty TNHH MTV Trịnh Phong Giang, huyện Cẩm Mỹ (Đồng Nai), cho hay, công ty ông chuyên sản xuất và xuất khẩu hạt điều, khoảng 80% xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Do đại dịch, từ sau Tết đến nay, công ty gần như phải tạm ngừng sản xuất. Mặc dù công ty đã nộp đơn xin được hỗ trợ, giảm lãi suất vay vốn ngắn hạn khoảng 10 tỷ đồng nhưng vẫn chưa được. Hiện công ty vẫn phải chịu lãi suất thông thường khoảng 10,5%/năm.
Ông Võ Việt Dũng, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Chế biến thực phẩm Nam Hà Nội, nhận xét: "Các ngân hàng nói rằng đã điều chỉnh giảm lãi suất 2 điểm % cho DN, nhưng trên thực tế bản thân tôi mất gần 2 tuần để dẫn dụ các văn bản, ngân hàng mới giảm lãi suất xuống 0,5 điểm %".
Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa ra đời năm 2017 với kỳ vọng giúp các DNNVV phát triển. Tuy nhiên, kết quả thực hiện chưa đáp ứng được kỳ vọng của cộng đồng DN. Trong đó, điểm nghẽn khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng lãi suất thấp, đã không được khai thông.
TS. Trần Hoàng Ngân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM, kiến nghị Chính phủ có thể cân nhắc một gói hỗ trợ lãi suất thấp để hỗ trợ các DN gặp khó khăn do Covid-19 gây ra. Giai đoạn 2008-2009 chịu tác động từ khủng hoảng tài chính toàn cầu, chúng ta đã có gói hỗ trợ lãi suất 4%/năm. Hiện lãi suất tại Việt Nam cao hơn rất nhiều so với lãi suất trong khu vực. Do đó, Chính phủ nên xem xét thêm những gói cho vay với lãi suất thấp để hỗ trợ.
Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam, đ.ánh giá, năng lực điều hành, quản trị của DNNVV hiện rất thấp, vì vậy các ngân hàng không thể cho vay dưới chuẩn. Do đó, cần có bảo lãnh tín dụng. Thực tế, nhiều quốc gia đã tung ra các gói bảo lãnh tín dụng, có nơi lên tới 70% khoản vay.
Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, cần mở rộng quy mô các Quỹ bảo lãnh tín dụng để quỹ hoạt động hiệu quả hơn. Không nên quá lo ngại về nguy cơ "vỡ quỹ" do DN sử dụng vốn vay không hiệu quả, vì DN nào cũng muốn làm ăn có lãi.
Huy động được 2.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm Trong hôm 17-6, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) tổ chức phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành. Ảnh minh họa. Theo đó, trong phiên đấu thầu này, đã huy động được các trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5, 10, 15 và 20 năm. Cụ thể, trái phiếu kỳ hạn 5 năm gọi...