Trung Quốc thất bại mục tiêu tự cung cấp chất bán dẫn
Mặc dù Trung Quốc tăng cường sản xuất chất bán dẫn vào năm ngoái, nhưng tốc độ nhập khẩu không hề suy giảm đã cho thấy nước này vẫn còn cách xa mục tiêu tự cung tự cấp về công nghệ.
Trung Quốc đẩy mạnh sản xuất vi mạch tích hợp trong năm 2020
South China Morning Post dẫn số liệu thống kê công nghiệp chính thức của Cục Thống kê Quốc gia (NBS) cho thấy, sản xuất vi mạch tích hợp và robot công nghiệp của Trung Quốc tăng đáng kể trong năm 2020, khi nước này đẩy mạnh sản lượng các sản phẩm công nghệ cao trước những hạn chế ngày càng thắt chặt của Mỹ. Tuy nhiên, tốc độ nhập khẩu chip cũng cao tương tự như tốc độ sản xuất đã phản ánh một thực tế là Trung Quốc vẫn chưa đạt được mục tiêu độc lập về công nghệ quan trọng.
Cụ thể, sản lượng vi mạch của Trung Quốc tăng 16,2% vào năm ngoái, tăng hơn gấp đôi so với mức 7,2% trong năm 2019. Sản xuất robot công nghiệp cũng tăng lên 19,1%. Ngoài ra, xe năng lượng mới cũng là một điểm sáng khác, với mức mở rộng sản xuất tăng 17,3% so với năm trước đó. NBS không công bố bảng phân tích chi tiết về từng loại sản phẩm, nhưng Trung Quốc nhiều khả năng vẫn phải dựa vào việc nhập khẩu các loại chip cao cấp khi ngành công nghiệp bán dẫn của nước này tìm cách đuổi kịp Mỹ. Theo dữ liệu hải quan, Trung Quốc đã nhập khẩu 350 tỉ USD giá trị chip trong năm 2020, tăng 14,6% so với năm 2019.
Trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với Mỹ, chính quyền Bắc Kinh nhấn mạnh khả năng tự cung cấp về công nghệ trong kế hoạch 5 năm lần thứ 14, từ năm 2021 đến năm 2025. Kế hoạch này đưa việc đổi mới công nghệ cao lên làm ưu tiên quan trọng hàng đầu.
Chất bán dẫn trong thời gian qua là “điểm yếu” đặc biệt của Trung Quốc khi thành phần cơ bản này buộc phải có mặt trong tất cả thiết bị điện tử hiện đại và trở thành “chiến trường” trọng yếu trong cuộc chiến công nghệ Mỹ – Trung. Sau khi chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump đưa ra lệnh hạn chế bán chip cho Huawei khi không được phép, Bắc Kinh vào tháng 8.2020 công bố chính sách ưu đãi thuế để trợ giúp ngành công nghiệp chip trong nước.
Theo ông Edison Lee, chuyên gia phân tích nghiên cứu cổ phần cho các dịch vụ viễn thông tại Jefferies Asia, ngành công nghiệp bán dẫn của Trung Quốc sẽ tiếp tục phát triển vào năm 2021 khi nước này mở rộng công suất cho các nhà máy sản xuất chip. Ông Lee lưu ý mục tiêu thúc đẩy sự tự lực cũng có thể hỗ trợ các ngành công nghiệp khác, bao gồm cả phương tiện năng lượng mới, xe tự hành và tự động hóa công nghiệp.
Tuy nhiên, theo ông Stewart Randall, người đứng đầu bộ phận điện tử và phần mềm nhúng tại công ty tư vấn kinh doanh Intralink, chỉ riêng các con số NBS mới công bố đã vẽ nên một bức tranh khác đầy khó khăn về ngành công nghiệp bán dẫn của Trung Quốc. Ông Randall nhấn mạnh nhập khẩu chất bán dẫn tăng cùng tốc độ với hoạt động sản xuất vi mạch tích hợp trong nước đã cho thấy Trung Quốc không đạt được mục tiêu của mình. “Mục tiêu ban đầu cho năm 2020 là đạt khả năng tự cung cấp 40%, nhưng Trung Quốc hoàn toàn thất bại trong mục tiêu đó”, ông Randall nói.
Motorola: Từ đỉnh cao danh vọng đến bán mình
Trước cả khi cái tên Nokia nổi danh, đã có một hãng điện thoại làm mưa làm gió trên toàn thế giới với những sáng tạo vô cùng đột phá của mình. Đó chính là Motorola, một trong những thương hiệu điện thoại đầu tiên xuất hiện trên thế giới với nhiều mẫu máy cực ký đột phá.
Video đang HOT
Những chiếc điện thoại của Motorola đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi của ngành công nghiệp sản xuất điện thoại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, khác với Nokia, Motorola không quá phụ thuộc vào những gì đã đem lại thành công cho mình trong quá khứ nhưng sự nổi lên của những hãng điện thoại khác như Apple hay Samsung cùng một số vụ đầu tư sai lầm đã khiến mảng kinh doanh chủ đạo của hãng gặp nhiều khó khăn và phải bán mình.
Motorola bắt đầu thành lập tại Chicago, Illinois, với tên gọi Galvin Manufacturing Corporation vào năm 1928, sau khi anh em Paul và Joseph Galvin mua lại mảng sản xuất thiết bị thay thế pin (battery eliminator) của Công ty Stewart Battery với giá 750 USD. Thời điểm ban đầu, công ty tiếp tục sản xuất các thiết bị thay thế pin, cho phép các radio chạy bằng pin hoạt động bằng điện gia dụng.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ vô tuyến đã khiến những chiếc máy này trở nên lỗi thời; do đó, anh em nhà Galvin buộc phải tìm hướng đi mới cho công ty. Rất nhanh chóng, họ đã chuyển đổi sang sản xuất những chiếc radio ô tô giá rẻ mà có thể lắp đặt được trên hầu hết các loại xe. Sản phẩm này đã được đón nhận và đem lại cho công ty nguồn tiền đủ để duy trì hoạt động.
Chiếc radio được sản xuất bởi Galvin Manufacturing Corporation
Ngay sau đó, Paul Galvin đã đặt tên thương hiệu cho loại radio này là Motorola, ghép bởi 2 từ là Motor (for Motorcar - dành cho xe ô tô) và ola - cách kết thúc tên công ty phổ biến thời bấy giờ. Công ty đã bán chiếc radio mang nhãn hiệu Motorola đầu tiên của mình vào ngày 23 tháng 6 năm 1930 với giá 30 USD cho Herbert C. Wall - một trong những nhà phân phối các sản phẩm radio Motorola đầu tiên tại Hoa Kỳ.
Năm 1930, công ty bắt đầu bán các thiết bị thu thanh cho các sở cảnh sát trên khắp nước Mỹ; đồng thời, Motorola cũng xây dựng chương trình nghiên cứu và phát triển của mình với Dan Noble, nhà tiên phong trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn và đài FM. Sự hợp tác này đã giúp Motorola sản xuất ra chiếc Radio AM SCR-536 vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc liên lạc của quân Đồng Minh trong thế chiến thứ hai. Phát minh này đã giúp công ty đứng thứ 94 trong số các doanh nghiệp tại Mỹ về giá trị hợp đồng ký được trong giai đoạn này.
AM SCR-536 - một trong những thiết bị liên lạc rất quan trọng của quân Đồng minh trong thế chiến thứ hai (
Lúc này, thương hiệu Motorola trở nên nổi tiếng đến nỗi Galvin Manufacturing Corporation được đổi tên thành Motorola, Inc vào năm 1947. Hoạt động kinh doanh chính của Motorola vào thời điểm này là sản xuất và thương mại hóa các sản phẩm tivi cũng như radio. Kể từ năm 1958, Motorola cung cấp thiết bị vô tuyến cho hầu hết các chuyến bay vũ trụ của NASA trong nhiều thập kỷ, bao gồm cả chuyến đi lịch sử lên Mặt trăng năm 1969. Câu nói nổi tiếng của Neil Armstrong: "một bước nhỏ cho con người, một bước nhảy khổng lồ cho nhân loại (one small step for man, one giant leap for mankind) từ mặt trăng được thực hiện bằng một thiết bị thu phát của Motorola.
2 năm sau chuyến đi lịch sử của Neil Armstrong, Motorola cho ra mắt chiếc điện thoại cầm tay đầu tiên của mình, điều đã thay đổi hoàn toàn lịch sử của hãng. Chiếc điện thoại này được kỹ sư Martin Cooper phát triển. Mặc dù hình dạng khá thô kệch, nhưng chiếc điện thoại đem lại sự tiện lợi và tính di động mà khách hàng mong đợi. Năm 1983, công ty cho ra mắt thiết bị di động thương mại đầu tiên trên thế giới - DynaTAC 8000X, sau khi được Ủy ban Truyền thông Liên bang Hoa Kỳ (FCC) phê duyệt.
Không chỉ mạnh ở mảng điện thoại, Motorola còn là một trong những công ty đi đầu về công nghệ bán dẫn, bao gồm cả các mạch tích hợp được sử dụng trong máy tính, được sử dụng rộng rãi trong đó đáng kể nhất là các thiết bị ngoại vi mã số 6800 được sử dụng trong dòng máy tính cá nhân của IBM. Motorola cũng có nhiều dòng sản phẩm truyền thông đa dạng, bao gồm hệ thống vệ tinh, hộp cáp kỹ thuật số và modem.
Chiếc điện thoại đầu tiên của Motorola
Tiếp đà phát triển, Motorola cho ra mắt nhiều thiết bị di động cầm tay, bao gồm cả máy nhắn tin những năm sau đó và trở thành công ty hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất điện thoại và kinh doanh viễn thông. Vào năm 1989, Motorola đã phát hành MicroTAC, là điện thoại di động nhỏ nhất và nhẹ nhất hiện có vào thời điểm đó. Sau đó không lâu, Motorola cho ra mắt StarTAC, điện thoại di động nắp gập đầu tiên với giá bán lên tới 1000 USD. Tuy có giá bán cao, nhưng đây lại là một sản phẩm cực kỳ thành công với trên 60 triệu chiếc được bán ra trên toàn thế giới.
Hãng đã cho ra mắt modem cáp đầu tiên và hoàn thành cuộc gọi qua giao thức Internet (Voip) vào năm 1995, đánh dấu một bước đường dài đầy thành công. Bên cạnh đó, công ty cũng tiến hành triển khai một dự án mang tên Iridium trị giá hàng tỷ USD với mục đích kết nối con người trên toàn thế giới bằng công nghệ không dây thông qua một hệ thống vệ tinh quỹ đạo thấp (LEOS).
Tuy nhiên, đây cũng là đánh dấu cho một chu trình đi xuống của Motorola. Bắt đầu từ nửa cuối năm 1990, họ đã bắt đầu thua lỗ do thị trường bán dẫn và máy nhắn tin rơi vào suy thoái, cộng thêm với việc doanh số bán điện thoại giảm do xuất hiện sự cạnh tranh khốc liệt tới từ Nokia. Năm 1998, lần đầu tiên sau nhiều năm Motorola mất vị trí dẫn đầu vào tay của Nokia trong ngành sản xuất điện thoại. 1 năm sau, dự án Iridium đi vào hoạt động chính thức, tuy nhiên không chỉ gặp vấn đề về kỹ thuật mà nhu cầu sử dụng của dự án tại các thị trường gần như không có, chủ yếu do giá cước cuộc gọi cao đến bất thường (khoảng 3 đô la một phút). Dự án cuối cùng đã thất bại, để lại một khoản lỗ khổng lồ cho Motorola.
Iridium, dự án sai lầm đã đẩy Motorola đến khủng hoảng
Năm 1999, hãng bắt đầu có lãi trở lại và một năm sau cho ra đời chiếc điện thoại đầu tiên có tích hợp GPRS; số lượng nhân viên trong năm này của Motorola đạt mức đỉnh với 150,000 người. Năm 2005, Motorola trở lại ngôi vị số 2 trong ngành sản xuất điện thoại với sự thành công của mẫu RAZR, khi chiếc máy này đã bán được tới 130 triệu sản phẩm.
Dù vậy, trước sự nổi lên của Apple và Samsung, thị phần điện thoại những năm sau đó của Motorola giảm dần. Năm 2006, thị phần điện thoại di động của công ty đạt khoảng 21% nhưng đến cuối năm 2007 giảm xuống chỉ còn 12% và chỉ còn 9% vào năm 2009. Công ty cũng có sự phản hồi tích cực với mẫu điện thoại Motorola Droid được nhiều người tiêu dùng đón nhận, tuy nhiên so với các mẫu máy của hai gã khổng lồ Samsung và Apple, nỗ lực của Motorola là chưa đủ để họ có thể trở lại làm một ông lớn trên thị trường sản xuất điện thoại.
Thị phần mảng điện thoại của Motorola giảm dần từ năm 2007
Tới tháng 1/ 2011, Motorola chính thức tách ra thành 2 công ty hoạt động riêng biệt là Motorola Mobility - hoạt động chủ yếu trong việc sản xuất điện thoại và Motorola Solutions - làm việc với các cơ quan an toàn công cộng và chính phủ trong việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ liên quan tới viễn thông, trong đó có hệ thống radio 2 chiều và radio công cộng cho một số cơ quan thực thi pháp luật.
Năm 2012, Google mua lại Motorola Mobility với giá 12.5 tỷ USD, trước khi bán mảng kinh doanh bộ giải mã và modem cáp cho Arris cũng như bán lại toàn bộ công ty vào năm 2014 cho Lenovo với giá 2.91 tỷ USD. Dưới sự quản lý của Lenovo, hãng vẫn đưa ra được một số điện thoại thông minh đáng chú ý như Moto Z, Moto One...
Motorola tách thành 2 công ty là Mobility và Solutions kể từ năm 2011
Tính đến thời điểm hiện tại, Motorola vẫn được biết đến thông qua những chiếc điện thoại được sản xuất bởi Lenovo, cùng với những công nghệ về mạng và hệ thống viễn thông tại Motorola Solutions. Dù vóc dáng không còn được như thời đỉnh cao, song vai trò của Motorola trong ngành điện tử viễn thông là rất quan trọng. Cùng với đó những phát minh của họ trong quá khứ cũng đã thay đổi hoàn toàn ngành sản xuất điện thoại và viễn thông, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhân loại tính tới ngày nay.
WSJ: Jack Ma từng đưa ra lời đề nghị 'hiến' 1 phần Ant cho chính phủ Trung Quốc nhưng vẫn không ngăn được thương vụ IPO 35 tỷ USD sụp đổ "Các vị có thể lấy đi bất kỳ nền tảng nào mà Ant có, miễn là đất nước cần", Jack Ma nói một vài ngày trước khi Ant bị đình chỉ IPO. Khi Jack Ma đang nỗ lực cải thiện mối quan hệ với chính quyền Bắc Kinh vốn trở nên xấu đi kể từ tháng 11, tờ WSJ vừa đưa tin rằng...