Triều Tiên có thể tham khảo bài học hàn gắn quan hệ Việt-Mỹ
Nhân dịp Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong Un thăm hữu nghị chính thức Việt Nam và dự thượng đỉnh lần hai với Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 27-28/2, phía Triều Tiên có thể tham khảo bài học hàn gắn quan hệ Việt-Mỹ sau chiến tranh cũng như mô hình phát triển của Việt Nam, một số chuyên gia trong và ngoài nước nhận định.
GS. Carlyle Thayer, Đại học New South Wales (Úc)
Trao đổi với PV Tiề.n Phong, GS. Carlyle Thayer, Đại học New South Wales (Úc), Triều Tiên có thể tham khảo bài học Việt Nam và Mỹ hàn gắn quan hệ sau chiến tranh, nhưng nếu có, thực tế sẽ diễn ra ở mức độ thấp vì Triều Tiên, Mỹ và các bên liên quan chưa ký kết hiệp ước hòa bình và Mỹ chưa rút hết quân khỏi Hàn Quốc như từng làm ở miền nam Việt Nam. Theo ông, Triều Tiên rất khó phi hạt nhân hóa trừ khi Mỹ rút quân khỏi Hàn Quốc.
Vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh
“Triều Tiên có thể tham khảo Việt Nam trong vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Làm điều này tốt sẽ dần dần góp phần dẫn tới cải thiện quan hệ trong các lĩnh vực khác và bình thường hóa quan hệ. Trong tương lai, có thể Triều Tiên chấp nhận thanh sát quốc tế, Mỹ trao đổi văn phòng liên lạc với Triều Tiên”, ông Thayer nhận định.
Triều Tiên cũng có thể tham khảo Việt Nam về việc xử lý các lệnh trừng phạt của Mỹ và quốc tế. Trước tiên, Triều Tiên nên cải thiện quan hệ chính trị với Mỹ vì quan hệ chính trị tốt hơn sẽ giúp cải thiện quan hệ kinh tế. “Nhiều khả năng Triều Tiên sẽ nhượng bộ để được giảm bớt cấm vận, thu hút đầu tư nước ngoài, cải cách kinh tế theo hướng thị trường”, GS. Thayer nói.
Tuy nhiên, Triều Tiên và Việt Nam có 4 khác biệt lớn, ông Thayer nhận định.
Thứ nhất, chế độ Sài Gòn sụp đổ và Việt Nam thống nhất, đàm phán bình thường hóa quan hệ chỉ có giữa hai bên.
Video đang HOT
Thứ hai, an ninh của Việt Nam được bảo đảm, Việt Nam thắng cuộc chiến, không đối mặt nguy cơ quân sự hiện hữu, cả truyền thống và hạt nhân, từ phía Mỹ. Trong khi đó, Triều Tiên đối mặt một Hàn Quốc hùng mạnh được lực lượng quân sự đồn trú của Mỹ ủng hộ. Lực lượng này không chỉ có ở Hàn Quốc mà còn ở Nhật Bản và Guam. Triều Tiên còn đối mặt nguy cơ tấ.n côn.g hạt nhân từ Mỹ.
Thứ ba, Việt-Mỹ hòa giải thành công một phần nhờ sự phân hóa trong xã hội Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Nhiều người dân và quan chức Mỹ yêu chuộng hòa bình.
Thứ tư, Việt Nam đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các nước, quan hệ tốt với Trung Quốc, Liên Xô, sau này Nga, rồi Đông Âu, Ấn Độ, các nước ASEAN… “Trong khi đó, Triều Tiên phụ thuộc vào Trung Quốc – nước có lợi ích quốc gia trong việc ngăn chế độ Triều Tiên sụp đổ và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên. Mối quan hệ Trung-Triều rất khác mối quan hệ Việt-Xô”, GS. Thayer nhận xét.
Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong Un và Tổng thống Mỹ Donald Trump trong cuộc gặp thượng đỉnh lần thứ nhất diễn ra hồi tháng 6/2018 ở Singapore. Ảnh: Getty Images.
Mô hình cải cách thành công
Trao đổi với PV Tiề.n Phong, PGS.TS. Phạm Hồng Thái, quyền Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), nói rằng, quan hệ Việt – Triều được coi là quan hệ hữu nghị truyền thống, hai nước đều nỗ lực duy trì và phát triển mỗi khi có cơ hội, “Việt Nam là một mô hình cải cách thành công từ điểm xuất phát có nhiều nét tương đồng với Triều Tiên hiện nay”.
Việt Nam từng có quan hệ thù địch với Mỹ và bị Mỹ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận; là một nước xã hội chủ nghĩa từng có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và kém phát triển…Tuy nhiên, sau đó, Việt Nam đã cải thiện quan hệ với Mỹ, thực hiện đường lối Đổi mới thành công, phát triển ngoại giao đa phương, thu hút nhiều đầu tư nước ngoài…Sau hơn 30 năm Đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế.
Theo ông Thái, so với các nước khác, Việt Nam có mô hình phát triển gần gũi với Triều Tiên hơn cả, thể hiện qua nhiều chiến lược và chính sách phát triển quốc gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tương đồng, mỗi nước đều có đặc điểm và hoàn cảnh riêng nên Triều Tiên sẽ không hoàn toàn sao chép mô hình phát triển của Việt Nam. “Họ có thể tham khảo, học hỏi Việt Nam với sự sáng tạo riêng của mình”, ông Thái nhận định.
THÁI AN
Theo TPO
"Nhiều cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội vẫn xa lạ với công bố quốc tế"
GS.TS Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội đã bày tỏ thẳng thắn như vậy, khi chỉ ra thực trạng của vấn đề công bố khoa học quốc tế ở lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) của Việt Nam hiện nay.
Phát biểu tại hội thảo Công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV tại Việt Nam do ĐH Quốc gia TPHCM và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 16/1, GS.TS Phạm Quang Minh cho rằng Việt Nam có sự chuyển dịch trong công bố quốc tế trong lĩnh vực này tuy nhiên vẫn còn khiêm tốn.
Theo ông Minh, nếu so với các nước ASEAN, số lượng công bố ISI ở lĩnh vựa khoa học xã hội của Việt Nam xếp thứ 4, đứng sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.
"Nếu như năm 2013 chúng ta chỉ có 190 bài báo công bố thì đến năm 2018 đã lên đến 487 bài. Còn khi so với xếp hạng của thế giới về số lượng công bố ISI trong 5 năm gần đây thì chúng ta cũng nâng hạng từ vị trí 66 (năm 2013) lên vị trí 49 (năm 2018). Điều này cho thấy các nhà khoa học xã hội Việt Nam không kém và đã nổ lực rất cao trong nghiên cứu", ông chia sẻ.
Các đại biểu, nhà khoa học tham dự hội thảo đã góp ý để nâng cao việc nghiên cứu công bố quốc tế trong lĩnh vực khoa học xã hội
Còn thống kê của Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội cho thấy từ 7 công bố quốc tế năm 2010 đã tăng lên 79 bài năm 2018. Tuy nhiên, thực tế là bài viết vẫn chủ yếu tập trung ở một số tác giả nhất định, những người đã từng được đào tạo hoặc tu nghiệp ở nước ngoài, thường xuyên có công bố quốc tế.
Năm học 2017 - 2018, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội có số công bố quốc tế nhiều nhất nhưng cũng chỉ mới có 54 cán bộ tham gia viết bài, trung bình 1,5 bài/tác giả. So với tiềm lực của trường với 380 giảng viên, trong đó có 112 giáo sư và phó giáo sư, 133 tiến sĩ và 147 thạc sĩ thì số người có công bố quốc tế vẫn rất khiêm tốn.
Trong bài tham luận, GS.TS Phạm Quang Minh nhìn nhận một thực trạng đáng buồn là còn khá nhiều cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội vẫn xa lạ với công bố quốc tế. Và theo ông Minh có 5 nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Trong đó, "đầu tiên là do quy trình đào tạo của chúng ta đã quá lỗi thời, lạc hậu với tình trạng "thầy đọc trò chép" hay chỉ vài cuốn sách giáo khoa mà không gắn liền thực tế khiến tư duy phản biện của sinh viên Việt Nam rất kém. Chính vì chúng ta không có những cử nhân tốt, nghiên cứu sinh tốt thì làm sao có các nhà khoa học tốt được", ông Minh nói.
Ngoài ra, đó là các nguyên nhân gồm chưa nhận thức một cách nghiêm túc về tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc công bố; rào cản về ngoại ngữ; nhiều tạp chí khoa học trong nước còn yếu kém nên dễ dãi trong khâu tuyển chọn bài; sự hợp tác quốc tế vẫn còn nặng tính hình thức, chưa quan tâm hiệu quả thiết thực đầu ra của sản phẩm khoa học.
Còn GS.TS Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho hay, trong những năm qua, lĩnh vực Khoa học xã hội góp phần tích cực cho công cuộc đổi mới đất nước nhưng so với lĩnh vực khoa học tự nhiên hay công nghệ thì lĩnh vực này hội nhập quốc tế chậm hơn.
"Điều này đòi hỏi yêu cầu công bố quốc tế, hội nhập quốc tế nói chung của lĩnh vực KHXH&NV hết sức cấp thiết. Muốn hội nhập thành công, chính công bố quốc tế giữ vị trí quan trọng. Vì công bố quốc tế vừa đảm bảo việc cung cấp tri thức, giới thiệu đất nước cho thế giới, cho khu vực, nó tạo cơ sở cho thế giới hiểu biết Việt Nam nhiều hơn, tạo cơ sở cho tăng cường hợp tác của Việt Nam trên thế giới nhưng đồng thời nó còn khẳng định thể hiện nền khoa học công nghệ của đất nước", ông Thuấn nêu ý kiến.
Các đại biểu cũng nhìn nhận việc số lượng các công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV ít ỏi là một thiệt thòi mang tầm quốc gia, vì nó ảnh hưởng đến vị thế và sức ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, nó dẫn đến việc hạn chế đóng góp của ngành này trong việc phổ biến những giá trị Việt Nam, văn hóa Việt Nam, vai trò của Việt Nam về đối nội, đối ngoại và khẳng định chủ quyền lãnh thổ.
Theo PGS.TS Phạm Văn Phúc, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, ĐHQG TPHCM dẫn lại một kết quả tìm kiếm số lượng công bố trên thế giới về từ khóa "Biển Đông", dựa trên cơ sở dữ liệu toàn cầu lớn nhất, có phản biện là Scopus. Kết quả rất đáng suy ngẫm: "Chúng ta thấy 10 tạp chí công bố nhiều nhất về biển Đông, hầu hết 90% các tạp chí này được xuất bản từ Trung Quốc. Tất cả các tạp chí này đều đạt chuẩn Scopus. Vậy các nước công bố nhiều nhất về biển Đông, đương nhiên là các học giả Trung Quốc. Cụ thể, công bố từ Trung Quốc có 8.647 bài về biển Đông; từ Mỹ thì có 2.139 bài; Đài Loan có 1.070 bài. Trong top 10 quốc gia công bố nhiều nhất về biển Đông thì không có Việt Nam chúng ta", ông Phúc nói.
Từ kết quả nghiên cứu trên để thấy rằng, việc xuất bản tạp chí về lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn tại Việt Nam đạt chuẩn quốc tế, là một nhu cầu cấp thiết và hướng đi chiến lược trong hội nhập quốc tế toàn diện.
Lê Phương
Theo Dân trí
Nhóm học sinh Hà Nội vô địch giải tranh biện tiếng Anh Với đề tài "Các nước ASEAN có nên có đồng tiề.n chung?", bốn học sinh Hà Nội đã phản đối với nhiều lý lẽ thuyết phục. Tối 13/1, vòng chung kết Giải vô địch tranh biện Hà Nội mở rộng - HN VSDC lần hai đã diễn ra tại trường Phổ thông liên cấp Olympia với đề tài gây tranh cãi: "Các nước...