Triển vọng ngành ngân hàng các tháng cuối năm
Tăng trưởng tín dụng năm nay khả năng ở mức 12-13%, NIM sẽ cải thiện, thu nhập ngoài lãi có thể tăng trưởng 20-30%, nợ xấu giảm, 2 ngân hàng có thể hoàn tất niêm yết…là những dự báo quan trọng đối với ngành ngân hàng.
Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) vừa công bố báo cáo triển vọng ngành quý 4/2019, trong đó đề cập sâu đến ngành ngân hàng.
Báo cáo cho biết, tăng trưởng tín dụng của ngành ngân hàng nửa đầu năm ở mức 8,64%, thấp hơn so với 9,52% của cùng kỳ năm 2018 (đến 30/9 tín dụng tăng 9,4% theo cập nhật của Thống đốc NHNN tại kỳ họp Quốc hội đang diễn ra). Cơ cấu cho vay vẫn tập trung chủ yếu vào nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng và thương mại – là những lĩnh vực được ưu tiên cho vay của chính phủ. Mức cung tiền M2 tăng trưởng lũy kế hết 9 tháng đạt mức 8,6% so với đầu năm, tương đương mức tăng trưởng tín dụng. Cung cầu tín dụng được kiểm soát tốt sẽ giúp mặt bằng lãi suất ổn định (trung bình lãi suất cho vay ngắn hạn từ 6%-9%, trung và dài hạn ởmức 9%-11%).
Về triển vọng quý 4/2019, BSC đánh giá tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống có thể sẽ đạt mức 12%-13%, chủ yếu do (1) nhu cầu tín dụng giảm ở nhiều ngành nghề kinh doanh đang gặp khó khăn cùng việc xiết chặt cho vay các ngành nghề rủi ro, (2) nhu cầu tín dụng mảng khách hàng cá nhân có thể bị ảnh hưởng do nền kinh tế đang giảm tốc trong thời gian tới.
Video đang HOT
Huy động vốn của hệ thống trong 7 tháng đầu năm đạt 7,6%, tỷ lệ cho vay/huy động (LDR) giảm xuống mức 88,7%. Tỷ lệ cho vay/huy động của các NHTM nhà nước và NH TMCP tiếp tục giữ ở mức cao (92,9% và 84,5%), vượt quá mức NHNN cho phép. Tuy nhiên, nhờ việc huy động tăng trưởng tốt, áp lực về tỷ lệ LDR cao đang dần được cải thiện. Lãi suất huy động tại các kỳ hạn trung và dài hạn tăng mạnh do nhu cầu bổ sung vốn trung và dài hạn khi bị hạn chế tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn trong thời gian tới. Lãi suất liên ngân hàng vẫn ở mức thấp và giảm chủ yếu do việc cắt lãi suất điều hành của NHNN (giảm tỷ lệ OMO xuống 4,5%), hiện đang ở mức dưới 2% với lãi suất qua đêm và 1 tuần.
NIM trong năm 2019 sẽ tăng nhẹ nhờ việc dịch chuyển cơ cấu cho vay. Trong nửa đầu năm, NIM toàn ngành được cải thiện, trung bình mức NIM của các NH niêm yết đạt 3,51%, cao hơn so với mức 3,2% cùng kỳ năm trước nhờ (1) tăng trưởng tín dụng chậm lại, (2) lãi suất huy động tăng ở các kỳ hạn dài trong khi lãi suất cho vay ổn định, (3) cơ cấu lại các khoản vay với lãi suất cao hơn. Việc cơ cấu các khoản vay này diễn ra nhanh hơn dự kiến, do đó BSC thay đổi quan điểm so với báo cáo trước về xu hướng NIM của ngân hàng trong 2019.
Thu nhập ngoài lãi, mảnh đất tiềm năng của các NH, dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng từ 20%-30% trong 2019. Trong nửa đầu năm, thu nhập ngoài lãi của toàn hệ thống đã tăng trưởng mạnh đến từ (1) tăng trưởng từ phí dịch vụ 46% so với cùng kỳ 2018 nhờ việc tăng trưởng khách hàng và tăng phí dịch vụ, (2) tích cực thu hồi nợ xấu ngoại bảng, (3) thu từ bán chéo sản phẩm bancassurance. Trong năm 2019, BSC kỳ vọng thu nhập ngoài lãi của toàn ngành tiếp tục tăng trưởng mạnh từ 20% – 30% đối với toàn hệ thống nhờ việc tiếp tục tăng phí dịch vụ, tăng trưởng khách hàng cá nhân và khai phá các mảnh đất mới nhiều tiềm năng (bancassurance, trái phiếu,..).
Nợ xấu có xu hướng giảm ở các ngân hàng niêm yết. Tỷ lệ NPL trung vị toàn ngành ở mức 1,6% (quý 1/2019: 1,8%), tỷ lệ nợ nhóm 2 = 1,3% (quý 1/2019 = 1,7%) cho thấy các NH hiện đang tập trung xử lý nợ tồn đọng từ quá khứ, làm sạch bảng cân đối. Bên cạnh đó, giảm nợ xấu giúp các NH giảm được chi phí trích lập dự phòng, từ đó cải thiện lợi nhuận. Một số ngân hàng ghi nhận giảm mạnh chi phí dự phòng, hỗ trợ lợi nhuận trong thời gian qua như TCB, ACB là ví dụ điển hình. Tỷ lệ chi phí dự phòng/LN thuần trước dự phòng được đẩy mạnh nhằm xóa các khoản nợ xấu (28,2% so với 18,7% trong quý 2/2018). Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCRs) = 75,9%. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng cũng đã áp dụng thành công Basel II trước hạn và sẽ có cơ chế quản lý và tăng trưởng tín dụng riêng trong thời gian tới.
Các ngân hàng sẽ tăng vốn điều lệ đáp ứng yêu cầu vốn theo yêu cầu Basel II thông qua (1) chi trả cổ tức bằng cổ phiếu; (2) phát hành tăng vốn cho cổ đông nước ngoài (VCB, BID), (3) phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2. Trong tháng 7/2019, Các ngân hàng sẽ tăng vốn điều lệ đáp ứng yêu cầu vốn theo yêu cầu Basel II thông qua (1) chi trả cổ tức bằng cổ phiếu; (2) phát hành tăng vốn cho cổ đông nước ngoài (VCB, BID), (3) phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2. Trong tháng 7/2019, BID đã đàm phán xong việc bán 15% cho KEB Hana Bank với giá 33,640 VND/cp, hiện đang hoàn thành nốt các thủ tục phát hành. Các ngân hàng khác như VPB, TPB,.. hiện đang phát hành các trái phiếu quốc tế thời hạn dài nhằm tăng vốn cấp 2, từ đó cải thiện CAR của các TCTD này. Hiện nay, CAR Basel I của toàn ngành, theo ước tính của BSC, đang ở mức 11% (CAR Basel II sẽ thấp hơn từ 1%-2%).
BSC cũng đưa ra thêm một dự báo đối với các ngân hàng đó là kế hoạch niêm yết. Tại mùa đại hội cổ đông năm nay, các ngân hàng đã có kế hoạch niêm yết bao gồm: OCB, MSB, SeABank, ABBank, Saigonbank, Nam A Bank và Việt Á, trong đó BSC cho rằng OCB và MSB có thể sẽ lên sàn vào cuối năm 2019.
Hằng Kim
Theo Trí thức trẻ
Phát hành trái phiếu quốc tế, ngân hàng được lợi gì?
Trong cuộc đua phát hành trái phiếu, một số ngân hàng đã tiến hành phát hành trái phiếu quốc tế với số lượng lên tới hàng trăm, hàng tỷ USD.
Thời gian qua đã diễn ra "cuộc đua" rầm rộ giữa các ngân hàng trong việc phát hành trái phiếu.
"Cuộc đua" phát hành trái phiếu đang diễn ra rầm rộ tại một số ngân hàng. (Ảnh minh họa: KT)
Theo TS. Nguyễn Minh Phong, việc nhiều ngân hàng Việt Nam tăng cường phát hành trái phiếu ra thị trường nước ngoài là một tín hiệu tốt, cho thấy các ngân hàng Việt đã có đủ tự tin cũng như đủ uy tín thuyết phục thị trường để huy động vốn từ nước ngoài. Điều này sẽ giúp cho các ngân hàng có thêm một kênh huy động vốn mới, giá rẻ và phong phú.
Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu kỳ hạn dài còn giúp các ngân hàng tăng vốn tự có và cải thiện hệ số an toàn vốn, đồng thời tăng được nguồn vốn trung và dài hạn.
Một lợi ích nữa mà ông Phong chỉ ra đó là, việc phát hành trái phiếu quốc tế còn giúp giảm bớt áp lực huy động tiền trong nước, làm tăng lãi suất huy động, đem lại lợi ích cho khách hàng. Động thái này còn giúp ngân hàng có thêm nội lực, khả năng hoạt động để mở rộng thị trường cũng như khẳng định uy tín, thương hiệu trên thị trường quốc tế và từng bước thâm nhập vào các thị trường khó tính. Thực tế hiện nay, rất ít ngân hàng Việt Nam "có chân" trên thị trường quốc tế, do đó việc các ngân hàng phát hành trái phiếu là bước đi đầu tiên phù hợp và đúng hướng.
Bên cạnh những lợi ích của việc phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong cũng chỉ ra một số khó khăn mà các ngân hàng phải đối mặt. Theo đó, trong quá trình huy động vốn thì thường gắn với những rủi ro nhất định. Khó khăn lớn nhất là thuyết phục thị trường, những đối tác sẵn sàng bỏ tiền ra mua trái phiếu (tức cho vay). Điều này không hề dễ dàng, nhất là khi các khách hàng nước ngoài chưa hiểu biết nhiều về ngân hàng, pháp luật Việt Nam; chưa có đủ sự tin cậy về hoạt động tín dụng và hay thể chế, tư pháp của Việt Nam.
"Khó khăn thứ 2 là sự hiểu biết chưa đầy đủ về thị trường nước ngoài, nếu đánh giá không đúng về thị trường thì sẽ phải vay với lãi suất cao, vô tình có thể tạo ra cái "bẫy thanh toán", tức vay xong nhưng không trả được nợ. Không phải ngân hàng nào ở Việt Nam cũng có khả năng phát hành trái phiếu quốc tế, chỉ những ngân hàng đủ uy tín, có xếp hạng tín nhiệm bởi các công ty xếp hạng quốc tế thì mới có khả năng này. Do đó, các ngân hàng Việt Việt sẽ phải có chiến lược cạnh tranh mạnh mẽ để tiếp cận được kênh huy động vốn hiệu quả", ông Nguyễn Minh Phong cho hay./.
Theo vov.vn
Sau nửa đầu năm 2019, nhiều ngân hàng công bố kết quả kinh doanh tích cực Mùa BCTC 6 tháng đầu năm chưa bắt đầu, nhưng một số ngân hàng đã hé lộ kết quả kinh doanh "khủng". Một số ngân hàng đã hé lộ kết quả kinh doanh "khủng". Nguồn: internet Sau nửa đầu năm 2019, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) ước đạt lợi nhuận trước thuế hơn 11.000 tỷ đồng, hoàn thành 54% kế...