Trẻ sinh ra từ phôi đông lạnh phát triển nhỉnh hơn so với phôi tươi
Kết quả theo dõi sự phát triển của gần 300 trẻ sinh ra từ thụ tinh trong ống nghiệm qua nhiều năm cho thấy trẻ sinh ra từ phôi đông lạnh phát triển tương đương hoặc tốt hơn trẻ sinh ra từ phôi tươi sau thụ tinh trong ống nghiệm.
Ảnh minh họa: ĐQ
Đây là nghiên cứu do nhóm nghiên cứu bao gồm các bác sĩ Bệnh viện Mỹ Đức, các chuyên gia từ Bộ môn Phụ Sản và Bộ môn Nhi Đại học Y Dược TPHCM. Ngoài ra, còn có sự hợp tác của các chuyên gia quốc tế từ Đại học Adelaide và Đại học Monash (Úc). Đây cũng là nghiên cứu lớn nhất và đáng tin cậy nhất trên thế giới cho đến nay về vấn đề này.
Theo đó, nhóm nghiên cứu đã theo dõi gần 300 trường hợp trẻ sinh ra từ thụ tinh trong ống nghiệm, bao gồm các trẻ sinh ra từ 2 nhóm: phôi tươi và phôi đông lạnh, từ lúc sinh đến khoảng 3 tuổi. Các tác giả sử dụng bộ câu hỏi sàng lọc ASQ-3 để đánh giá sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ vào độ tuổi khoảng trên dưới 3 tuổi.
Kết quả cho thấy, nói chung, trẻ sinh ra từ phôi đông lạnh có sự phát triển nhỉnh hơn so với trẻ sinh ra từ phôi tươi. Tuy nhiên, khi phân tích chi tiết các chỉ số đánh giá trẻ sinh ra từ phôi đông lạnh và trẻ sinh ra từ phôi tươi, nghiên cứu cho thấy sự khác biệt là không đáng kể.
Theo nhóm nghiên cứu, thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện thành công trên thế giới từ năm 1978. Hầu hết các nghiên cứu theo dõi sự phát triển của các trẻ sinh ra từ thụ tinh trong ống nghiệm nói chung (phôi tươi và phôi đông lạnh) cho đến nay đều thấy cho kết quả là không khác biệt so với trẻ bình thường.
Gần đây, khuynh hướng chuyển phôi đông lạnh đang thay thế dần chuyển phôi tươi trong thụ tinh trong ống nghiệm do nhiều báo cáo trên thế giới cho thấy chuyển phôi đông lạnh có kết quả bằng hoặc tốt hơn so với chuyển phôi tươi. Chuyển phôi đông lạnh cũng cho kết quả an toàn hơn cho bà mẹ và bé cho đến lúc sinh, với đa số các trường hợp.
Video đang HOT
Tuy nhiên, cho đến nay, rất ít nghiên cứu so sánh sự phát triển sau sinh của các trẻ sinh ra từ phôi đông lạnh và phôi tươi. Nghiên cứu của nhóm tác giả Bệnh viện Mỹ Đức là nghiên cứu đầu tiên trên thế giới với số trẻ được theo dõi lớn và phương pháp đáng tin cậy.
Nghiên cứu cung cấp kiến thức mới về sự phát triển của trẻ sinh ra từ phôi đông lạnh và góp phần chứng minh việc chuyển phôi đông lạnh sau khi thụ tinh trong ống nghiệm là hiệu quả và an toàn cho sự phát triển của trẻ sau sinh. Kết quả cũng giúp các bác sĩ và các cặp vợ chồng có thêm thông tin để quyết định các phác đồ điều trị phù hợp khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm.
Kết quả nghiên cứu này vừa được công bố vào đầu tháng 9/2020 trên tạp chí “Fertility and Sterility” của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ, là tạp chí y khoa hàng đầu của thế giới chuyên ngành về Sức khỏe sinh sản lâu đời, uy tín và có ảnh hưởng khoa học cao nhất trong ngành (IF 6.312) hiện nay.
Đây cũng là nghiên cứu khảo sát tiếp nối theo đề tài của nhóm nghiên cứu do TS.BS Vương Thị Ngọc Lan và cộng sự thực hiện trước đây tại Bệnh viện Mỹ Đức, đã công bố trên tạp chí NEJM năm 2018 và được trao tặng giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020.
Lần đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu ứng dụng phương pháp mới chữa vô sinh
Bộ Y tế vừa trao Quyết định Phê duyệt Đề tài Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ứng dụng phương pháp mới chữa vô sinh, hiếm muộn.
Theo đó, lần đầu tiên Bộ Y tế cấp phép nghiên cứu ứng dụng phương pháp "Huyết tương giàu tiểu cầu tự thân" trong điều trị nội mạc tử cung mỏng, mang đến phương pháp điều trị hiện đại, an toàn, hiệu quả, mở ra hy vọng mới cho các cặp đôi vô sinh, hiếm muộn tại Việt Nam.
Các đơn vị được cấp phép nghiên cứu gồm: Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Tâm Anh (Hà Nội) và Bệnh viện Mỹ Đức (TP.HCM).
Phương pháp này được chính thức đưa vào nghiên cứu ứng dụng đã thắp lên niềm hy vọng mới cho hàng nghìn phụ nữ suy nội mạc tử cung, nội mạc mỏng, chuyển phôi thất bại, sảy thai liên tiếp - vốn chiếm đến 20% số phụ nữ vô sinh hiếm muộn.
Trên thế giới, tỷ lệ thành công của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là khoảng 40-45%. Tại Việt Nam, tỷ lệ này dao động ở 35-60%, nghĩa là phần lớn phụ nữ làm IVF phải trải qua ít nhất 2 lần thực hiện kỹ thuật IVF để có thể thành công.
Tỷ lệ IVF thành công sẽ giảm dần từ 2-10% đối với phụ nữ có nội mạc tử cung mỏng, suy nội mạc, đồng thời nếu may mắn có thai thì nguy cơ sảy thai cũng cao hơn rất nhiều.
"Kỹ thuật mới khiến chúng tôi như được mở ra con đường mới, tươi sáng và chắc chắn dẫn đến thành công", PGS.TS.BS Lê Hoàng, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ sinh sản Bệnh viện đa khoa (BVĐK) Tâm Anh, Hà Nội chia sẻ.
Được nghiên cứu và ứng dụng ở nhiều nước trên thế giới, phương pháp bơm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân vào buồng tử cung kết hợp với liệu pháp hormone ngoại sinh đã chứng minh được hiệu quả làm tăng độ dày niêm mạc tử cung rõ rệt, nhờ đó tăng tỷ lệ làm tổ và đậu thai.
Tại Iran vào năm 2017, tiến sĩ Zadehmodarres và cộng sự đã tuyển chọn 10 bệnh nhân có tiền sử phát triển nội mạc tử cung (NMTC) không đầy đủ trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh để thực hiện nghiên cứu. Bệnh nhân đã được truyền 0,5ml PRP 2 lần trước khi tiến hành chuyển phôi. Kết quả, tất cả bệnh nhân được truyền PRP đều tăng độ dày NMTC, trong đó có 5 người mang thai, tương đương 50% số bệnh nhân.
Huyết tương giàu tiểu cầu tự thân thu được thông qua quá trình lấy máu của chính bệnh nhân, xử lý bằng máy chuyên dụng để tách ly được thành phần tiểu cầu và làm giàu bằng các phương pháp kỹ thuật cao, do đó có lượng tiểu cầu nhiều gấp 2-10 lần so với huyết tương bình thường, có nhiều yếu tố tăng trưởng và Cytokin.
Khác với huyết tương giàu tiểu cầu có sẵn (thường được sử dụng trong các trị liệu thẩm mỹ), đây là chế phẩm sinh học tương thích nhất với cơ thể người bệnh, tránh được tình trạng thải ghép. Tuy nhiên, để có được huyết tương giàu tiểu cầu đảm bảo chất lượng cao nhất nhằm điều trị hiệu quả và an toàn cho người sử dụng, cần được thực hiện với các trang thiết bị máy móc chuyên dụng, đội ngũ chuyên gia cao cấp cùng hệ thống quản lý chất lượng nghiêm ngặt.
Đó cũng là những khuyến cáo cần thiết được các chuyên gia ở nhiều quốc gia như Ý, Iran, Trung Quốc, Ấn Độ, Venezuela nhắc tới trong các báo cáo khoa học về thành công của phương pháp hiện đại này.
Theo BVĐK Tâm Anh, bệnh viện sẽ nghiên cứu ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân trong điều trị vô sinh hiếm muộn ở các trường hợp nội mạc tử cung mỏng (
Chất lượng của nội mạc tử cung của người phụ nữ vô cùng quan trọng trong việc mang thai, đối với thụ tinh ống nghiệm sẽ quyết định đến khả năng đậu thai, mang thai và từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ IVF thành công.
Việc bơm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân vào tử cung của người phụ nữ có nội mạc mỏng, suy nội mạc được đánh giá là phương pháp có khả năng giúp tăng đến 50% tỷ lệ mang thai ở nhóm đối tượng này.
Các chuyên gia cũng khẳng định, việc sử dụng Huyết tương giàu tiểu cầu tự thân của người phụ nữ giúp hiệu quả điều trị cao hơn, chống khả năng thải ghép và đảm bảo độ an toàn cao.
Với điểm ưu việt khi có Trung tâm tế bào gốc ngay tại bệnh viện và sở hữu hệ thống trang thiết bị và máy móc hiện đại, phòng lab tân tiến, quy trình khép kín, hệ thống quản trị chất lượng nghiêm ngặt... chính là nền tảng quan trọng để Trung tâm hỗ trợ sinh sản BVĐK Tâm Anh có thể đủ điều kiện đưa vào điều trị an toàn và mang lại hiệu quả cho người bệnh.
Được biết, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản BVĐK Tâm Anh, Hà Nội (IVFTA) cũng là đơn vị đầu tiên sở hữu và đưa vào sử dụng máy nuôi phôi áp dụng trí tuệ nhân tạo AI chính hãng, giúp quá trình nuôi phôi tốt hơn, tăng chất lượng phôi cũng như theo dõi, đánh giá phôi chính xác, từ đó lựa chọn phôi để chuyển cho bệnh nhân hiếm muộn, tăng tỷ lệ thành công.
Năm 2019, IVFTA dẫn đầu cả nước về tỷ lệ IVF thành công, trung bình lên đến 60,9%, trong đó nhiều trường hợp phụ nữ lớn tuổi, nam giới không có tinh trùng, bệnh nhân có bệnh lý kèm theo. Riêng nhóm bệnh nhân trên 35 tuổi, tỷ lệ IVF thành công tại IVFTA lên tới 61,8% và 70% với nhóm bệnh nhân dưới 30 tuổi.
Nguyễn Tuân
Theo infonet
Đẻ con trai, người mẹ chịu đau đớn hơn sinh con gái, bác sĩ sản tiết lộ lý do! Giới tính của trẻ còn có những mối liên quan trực tiếp đến các biến chứng thai kỳ. Trong quan niệm của hầu hết mọi người, tác động của việc sinh con dù là trai hay gái đối với phụ nữ là cố định nhưng trên thực tế, ảnh hưởng về giới tính đứa trẻ với sự đau đớn người mẹ phải chịu...