Trận hải chiến nhấn chìm thiết giáp hạm “khủng” nhất Nhật Bản
Trận chiến tại vịnh Leyte là trận hải chiến có quy mô lớn nhất trong các cuộc chiến tranh và cũng đánh dấu sự kết thúc cho vai trò của thiết giáp hạm trong lịch sử.
Ảnh minh họa
Trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thiết giáp hạm là loại tàu chiến hùng mạnh nhất trên biển và là biểu tượng cho sức mạnh hải quân của các quốc gia cho đến trước khi tàu sân bay ra đời.
Sau đây là những trận chiến lớn với nhiều thiết giáp hạm tham gia nhất.
Đây là trận đụng độ lớn giữa hải quân Hy Lạp và hải quân đế quốc Ottoman, diễn ra vào ngày 18/01/1913, trong cuộc chiến Balkan lần thứ 1.
Mỗi bên có 3 thiết giáp hạm tham gia trận chiến này, cùng một số tàu chiến hỗ trợ khác.
Trước đó, hải quân 2 nước đã từng giao chiến một lần vào tháng 12/1912, với phần thắng thuộc về Hy Lạp.
Để trả đũa, hải quân Ottoman lên kế hoạch tiêu diệt hạm đội Hy Lạp đang neo đậu tại đảo Lemnos.
Kế hoạch của họ là dùng một tuần dương hạm bí mật xâm nhập và tấn công cảng, sau đó rút đi, hy vọng một phần hạm đội Hy Lạp sẽ truy đuổi. Khi đó, hạm đội Ottoman có thể tấn công phần còn lại của hạm đội Hy Lạp.
Tuy nhiên trên thực tế, tư lệnh hạm đội Hy Lạp đoán được ý đồ của quân hải quân Ottoman và giữ toàn bộ hạm đội của mình trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, chờ đợi sự xuất hiện của hạm đội Ottoman.
Trong trận chiến diễn ra sau đó, các tàu của Ottoman khai hỏa với nhịp bắn cao nhưng độ chính xác rất kém. Hỏa lực từ tàu Hy Lạp ngược lại khá chính xác.
Kết thúc cuộc chiến, hạm đội Ottoman phải rút đi, với 3 tàu bị hư hỏng nặng. Phía Hy Lạp chỉ có 1 thủy thủ bị thương.
Thiết giáp hạm Barbaroshayreddin của hải quân Ottoman
5. Trận chiến Jutland
Jutland, một trong những trận hải chiến có quy mô lớn nhất trong lịch sử, diễn ra trong 2 ngày 31/5 và 1/6/1916 giữa 2 hạm đội chủ lực của hải quân Anh và Đức.
Phía Anh tung vào trận chiến 150 tàu chiến, trong đó gồm 28 thiết giáp hạm. Còn phía Đức có 100 tàu, với 16 thiết giáp hạm. Hơn 100.000 sĩ quan và thủy thủ của cả 2 bên tham gia trận chiến này.
Ưu thế trên biển khi đó vẫn nghiêng hẳn về phía người Anh. Mục tiêu của người Đức trong trận chiến này là tiêu diệt nhiều sinh lực của hải quân Anh nhất có thể.
Trong khi đó, hải quân Anh muốn đánh bại hoàn toàn hải quân Đức trong một trận quyết chiến.
Mặc cho số tàu chiến và quy mô hỏa lực khổng lồ của 2 hạm đội, trận chiến kết thúc mà không bên nào giành được thắng lợi rõ ràng. Không có thiết giáp hạm nào bị đánh chìm.
Tuy vậy, thiệt hại của cả 2 bên là khá nặng nề. Hơn 6.000 thủy thủ Anh và 2.500 thủy thủ Đức thiệt mạng. Tương quan lực lượng trên biển của Anh và Đức sau trận chiến này vẫn không thay đổi.
Hạm đội Anh chịu thiệt nặng hơn một phần do họ sử dụng loại thuốc phóng, dùng cho các đại pháo, dễ bắt lửa.
Các tàu chiến của họ cũng mang theo cơ số thuốc phóng rất lớn, một phần trong đó không được bảo vệ và che chắn kỹ lưỡng.
Video đang HOT
Vì vậy, nhiều tàu Anh sau khi trúng đạn của Đức và bị bốc cháy dữ dội. Ngọn lửa này lan đến khoang chứa đầu đạn và kích nổ số đạn này.
Tuần dương hạm hạng nặng Queen Mary là một trong những con tàu có kho đạn bị bắt lửa và nổ tung
6. Trận chiến tại vịnh Leyte
Tháng 10/1944, lực lượng Mỹ, dưới quyền tướng McArthur, đổ bộ lên đảo Leyte chuẩn bị cho chiến dịch tái chiếm Philippines khỏi tay phát xít Nhật.
Trực tiếp hỗ trợ chiến dịch đổ bộ là Hạm đội 7, nhưng gần đó còn có Hạm đội 3 trong tư thế sẵn sàng tiếp ứng nếu hải quân Nhật tấn công lực lượng đổ bộ. Hạm đội 3 khi đó gồm 14 tàu sân bay và hơn 1.000 chiến đấu cơ.
Nửa đêm ngày 18/10/1944, hạm đội Nhật gồm 7 thiết giáp hạm, 15 tuần dương hạm và 20 khu trục hạm xuất phát đến biển Phillippines để chặn đà tấn công của người Mỹ.
Lúc này lực lượng máy bay của hải quân Nhật đã gần như bị tiêu diệt hết, vì vậy, Nhật chỉ có thể trông cậy vào các thiết giáp hạm.
Đáng chú ý nhất là 2 thiết giáp hạm khổng lồ Musashi và Yamato, mỗi chiếc có lượng choán nước hơn 70.000 tấn.
Kế hoạch tác chiến của hải quân Nhật là chia lực lượng thành 2 mũi và cùng lúc tấn công hạm đội 7 của Mỹ từ 2 phía.
Mũi tấn công chính, bao gồm Musashi và Yamato, do phó Đô đốc Kurita chỉ huy. Mũi tấn công phụ nằm dưới quyền phó Đô đốc Nishimura.
Kế hoạch này đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng và phối hợp chặt chẽ giữa 2 hải đội. Tuy vậy, hải quân Nhật cũng hiểu rõ tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía người Mỹ.
Do đó, họ sử dụng những tàu sân bay của mình cho vai trò nghi binh. Thiếu máy bay và phi công, những tàu sân bay này không còn có tác dụng trên thực tế nhưng phía Mỹ khi đó vẫn chưa biết được điều này.
Sáng ngày 24/10/1944, cả 2 mũi tấn công của hạm đội Nhật đều bị máy bay trinh sát của hạm đội 3 phát hiện.
Tư lệnh hạm đội, Đô đốc Hasley, phát lệnh xuất kích cho toàn bộ lực lượng máy bay khổng lồ của mình.
Không có máy bay hỗ trợ, các tàu chiến Nhật chiến đấu trong vô vọng trước những đợt tấn công liên tục của người Mỹ.
Cả Yamato và Musashi đều là những mục tiêu tấn công chính nhưng Musashi kém may mắn hơn khi liên tục bị đánh trúng.
Đến cuối ngày hôm đó, siêu thiết giáp hạm này chìm xuống đáy biển sau khi đã hứng chịu hơn 30 quả bom và ngư lôi, và cùng với con tàu là một nửa trong thủy thủ đoàn 2.200 người.
Thiết giáp hạm Yamato sau khi bị trúng một quả bom
Tuy vậy, hạm đội Nhật chưa bị chặn đứng và tiếp tục di chuyển như theo kế hoạch.
Trong khi đó, Đô đốc Hasley lại ra lệnh cho hạm đội 3 truy đuổi nhóm tàu sân bay của Nhật, theo đúng như dự tính của đối phương.
Đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25/10, hai mũi tấn công của Nhật tiến vào vùng biển Phillipines và giao chiến với hạm đội 7.
Đây là một trong số rất ít những trận giao chiến trên biển lớn trong thế chiến thứ 2 mà không có sự tham gia của máy bay, chỉ có hỏa lực từ các tàu chiến.
Đến hết ngày 25/10, Nhật mất thêm 2 thiết giáp hạm cùng với 3 tuần dương hạm và 4 khu trục hạm. Hạm đội 7 mất 3 khu trục hạm và 1 tàu sân bay hạng nhẹ.
Thiết giáp hạm của Mỹ gồm các tàu Mississippi, West Virginia, Maryland, Tennessee, California và Pennsylvania vẫn nguyên vẹn sau trận chiến.
Cùng lúc đó, hạm đội 3 đuổi kịp hải đội nghi binh và đánh chìm 4 tàu sân bay Nhật.
Trận chiến tại vịnh Leyte là trận hải chiến có quy mô lớn nhất trong các cuộc chiến tranh và cũng đánh dấu sự kết thúc cho vai trò của thiết giáp hạm trong lịch sử.
Đó là lần cuối cùng những thiết giáp hạm có cơ hội trực tiếp giao chiến với nhau.
Sau khi kết thúc trận chiến, 3 thiết giáp hạm của Nhật, bao gồm các tàu Fuso, Yamashiro và siêu thiết giáp hạm Musashi, bị tiêu diệt.
Các thiết giáp hạm của Mỹ tuy không chịu thiệt hại nhưng cũng có thể xem là thiếu may mắn.
Khi hạm đội 3 bắt kịp các tàu sân bay Nhật, thì Đô đốc Hasley đã quyết định điều động các thiết giáp hạm của mình tăng viện cho hạm đội 7.
Song khi đến nơi thì trận chiến tại đây cũng vừa kết thúc. Như vậy, những thiết giáp hạm này đã mất cơ hội hiếm có để khai hỏa vào tàu sân bay.
Theo Trí Thức Trẻ
Trận chiến khiến Hạm đội Thái Bình Dương Nga gần như bị xóa sổ
"Không thể đếm được số lần chúng tôi bị bắn trúng. Đạn dường như rót xuống chúng tôi không ngừng" - Một sĩ quan Nga nói về hỏa lực quân Nhật trong trận chiến tại eo biển Tsushima.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thiết giáp hạm là loại tàu chiến hùng mạnh nhất trên biển và là biểu tượng cho sức mạnh hải quân của các quốc gia cho đến trước khi tàu sân bay ra đời.
Sau đây là những trận chiến lớn với nhiều thiết giáp hạm tham gia nhất:
1. Trận chiến tại cảng Arthur
Đây là trận hải chiến đã mở màn cho chiến tranh Nga - Nhật.
Ý định của người Nhật là chiếm thế thượng phong thông qua một cuộc tấn công phủ đầu nhằm vào hạm đội Nga đang neo đậu tại cảng Arthur, nằm trên bán đảo Liêu Đông, Trung Quốc.
Lực lượng Nhật gồm 6 thiết giáp hạm, với các tàu Hatsuse, Shikishima, Asahi, Fuji, and Yashima và kỳ hạm Mikasa. Hỗ trợ các thiết giáp hạm là 9 tuần dương hạm, 15 khu trục hạm và hơn 20 tàu phóng lôi.
Hạm đội Thái Bình Dương của Nga khi đó tại cảng Arthur gồm 7 thiết giáp hạm Petropavlovsk, Sevastopol, Peresvet, Pobeda, Poltava, Tsesarevich, và Retvizan. Cùng với đó là 5 tuần dương hạm.
Một lợi thế quan trọng của người Nga là họ có thể trông cậy vào hỏa lực từ những pháo đài trên bộ dùng để bảo vệ cảng Arthur, ngoài hỏa lực từ những tàu chiến của mình.
Lo ngại sự lợi hại của những pháo đài này, Đô đốc Togo, chỉ huy hạm đội Nhật, giữ các thiết giáp hạm ở khoảng cách an toàn, chỉ cho các khu trục hạm bí mật đột nhập vào trong cảng và dùng ngư lôi tấn công các tàu chiến Nga.
Cuộc tấn công bất ngờ vào đêm ngày 8/2/1904 đã gây hư hại cho 2 thiết giáp hạm Retvizan và Tsesarevich, khiến chúng bị loại khỏi vòng chiến trong nhiều tuần sau đó.
Thiết giáp hạm Tsesarevich là tàu hiện đại nhất của hạm đội Nga khi đó
Đến sáng ngày 9/2, hạm đội Nga rời cảng để đối đầu với hạm đội Nhật. Hai bên dàn đội hình và khai hỏa ở khoảng cách gần.
Nhiều tàu của cả 2 bên bị trúng đạn và hư hại nặng, tuy nhiên không có chiếc nào bị đánh chìm.
Không thể cùng lúc đối phó với hỏa lực từ các tàu chiến Nga và từ các pháo đài trên bờ, Đô đốc Togo quyết định rút quân vào giữa trưa ngày 9/2.
Kết thúc trận chiến, hai bên không mất con tàu nào, phía Nga có thể được xem là đã giành một thắng lợi nhỏ do đã đẩy lùi được cuộc tấn công của đối phương.
Nhưng ngược lại, người Nhật tuy chưa thể tiêu diệt hạm đội Thái Bình Dương của Nga nhưng đã có thể bao vây phong tỏa cảng Arthur và qua đó vô hiệu hóa vai trò của hải quân Nga trong khu vực.
2. Trận chiến tại Hoàng Hải
Sau trận chiến tại cảng Arthur, Hạm đội Thái Bình Dương của Nga và hạm đội liên hợp của Nhật tiếp tục giao chiến một lần nữa vào ngày 10/8/1904, khi hạm đội Nga tìm cách phá vòng vây của hải quân Nhật qua Arthur để di chuyển đến Vladivostok.
Tổng cộng có 10 thiết giáp hạm, 6 của Nga và 4 của Nhật, cùng gần 50 khu trục hạm và tuần dương hạm tham gia trận chiến. Sau gần 7 giờ giao chiến, hơn 7.000 viên đạn đã được bắn ra.
Cả 6 thiết giáp hạm Nga bị hư hại, trong đó 1 chiếc bị hư hại nặng.
Phía Nhật có 2 thiết giáp hạm hư hỏng nặng và 1 chiếc chịu thiệt hại nhẹ. Dự định của người Nga bị phá sản khi hạm đội Thái Bình Dương buộc phải quay về cảng Arthur.
3. Trận chiến tại eo biển Tsushima
Sau 2 thất bại liên tiếp tại cảng Arthur và Hoàng Hải, Sa hoàng ra lệnh cho hạm đội Baltic khởi hành đến Châu Á để tăng viện cho hạm đội Thái Bình Dương.
Xuất phát ngày 15/10/1904, hạm đội dưới quyền Đô đốc Zinovy Petrvich Rozhestvensky đã vượt qua quãng đường hơn 33.000 km từ biển Baltic đến vùng Viễn Đông vào cuối tháng 5/1905.
Ngày 26/5, hạm đội Nga di chuyển qua eo Tsushima để vào biển Nhật Bản và bị tàu trinh sát của Nhật phát hiện. Trước đó, Đô đốc Togo, tư lệnh hạm đội Nhật, đã dự đoán chính xác hải trình này của phía Nga.
Chiều ngày 27/5, hai hạm đội giáp mặt nhau. Hạm đội Nga xếp thành đội hình từ Nam-Tây Nam sang Bắc-Đông Bắc, còn hạm đội Nhật là từ Tây sang Đông Bắc.
Hạm đội Nga có 45 chiếc, gồm 11 thiết giáp hạm, 8 tuần dương hạm, các khu trục hạm và tàu hỗ trợ khác. Phía Nhật có 4 thiết giáp hạm và một số tuần dương hạm, khu trục hạm.
Đội hình hai hạm đội cách nhau khoảng 6km. Hỏa lực của quân Nhật rất ấn tượng, với nhịp bắn và độ chính xác cao.
Hơn nữa, người Nhật sử dụng một loại chất nổ có công thức mới trong đạn của mình, làm bùng lên những đám cháy dữ dội trên bất cứ con tàu nào bị bắn trúng.
Mức độ chính xác của hoả lực Nhật làm người Nga phải sững sờ.
Một sĩ quan Nga, Vladimir Semenoff Semenoff, đã viết: "Không thể đếm được số lần chúng tôi bị bắn trúng. Đạn dường như đang được rót xuống chúng tôi không ngừng".
Kỳ hạm Mikasa của Đô đốc Togo được bảo quản và trưng bày để kỷ niệm chiến thắng tại Tsushima
Tháp pháo trên Mikasa
Kết cuộc trận chiến đã cho thấy chiến thắng vang dội cho phía Nhật. Hạm đội Nga mất phần lớn số tàu chiến, bao gồm toàn bộ số thiết giáp hạm, 4.380 người chết, 5.917 bị thương, 4.000 bị bắt làm tù binh, trong đó có 3 Đô đốc.
Hạm đội Thái Bình Dương và Baltic gần như bị xóa sổ.
Trong khi đó, phía Nhật mất 117 người, 583 bị thương, mất 3 tàu phóng lôi.
Theo Tri Thức Trẻ
Biển Đông: Philippines chỉ trích Hy Lạp bán tàu đổ bộ cho Trung Quốc Hy Lạp chuyển bán tàu đổ bộ đệm khí cũ cho Trung Quốc, sẽ bàn giao vào cuối năm 2014, cho rằng, điều này không vi phạm lệnh cấm của NATO... Phê phán Hy Lạp bán Zubr cho Trung Quốc Trang mạng quân sự sina Trung Quốc ngày 4 tháng 12 đăng bài viết "Philippines chỉ trích Hy Lạp bán tàu đổ bộ...