Trận đánh “máu chảy thành sông” giữa Trung Quốc và Nhật Bản, 30 vạn người mất mạng
Thượng Hải là nơi diễn ra trận đánh quy mô lớn đầu tiên giữa quân đế quốc Nhật Bản và quân Trung Quốc. Đến cuối cùng, Trung Quốc phải rút khỏi Thượng Hải với tổn thất không thể thay thế ở cấp sư đoàn.
GIao tranh diễn ra trên từng góc phố, căn nhà ở Thượng Hải năm 1937.
Mùa hè năm 1937, thành phố Thượng Hải còn được mệnh danh là Hòn Ngọc phương Đông, trở thành chiến trường đẫm máu. 300.000 quân Nhật với sự yểm trợ của máy bay, tàu chiến, đối đầu với 700.000 quân Trung Quốc do Tưởng Giới Thạch chỉ huy, theo National Interest.
Trận đánh kéo dài trong khoảng 3 tháng với hơn 300.000 người chết. Những sư đoàn tinh nhuệ nhất của Trung Quốc đối đầu với nhiều bất lợi khi quân Nhật có xe tăng, tàu chiến và máy bay yểm trợ.
Ở Trung Quốc, chỉ còn một số ít người nhớ về trận Thượng Hải, Peter Harmsen, tác giả cuốn Thượng Hải 1937: Stalingrad trên sông Dương Tử, nói. Xét trên phương diện lịch sử, trận đánh có phần nào bị lu mờ bởi ngay sau đó là vụ thảm sát Nam Kinh mà quân đội đế quốc Nhật gây ra.
“Thượng Hải là một trong 22 trận đánh lớn giữa Nhật Bản và Trung Quốc, được nêu trong chính sử Trung Quốc”, Harmsen nói trên tạp chí War is Boring của Mỹ. “Nhiều người Trung Quốc biết về một số trận đánh, nhưng chỉ có chuyên gia và các nhà sử học mới có thể nêu rõ các trận đánh diễn ra ở đâu, khi nào và tại sao”.
Sau sự cố trên cầu Marco Polo và trong bối cảnh quân đội của đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đang suy yếu nghiêm trọng, Tưởng Giới Thạch quyết định mở trận đánh lớn với người Nhật ở Thượng Hải.
Không rõ vì sao Tưởng Giới Thạch chọn Thượng Hải, Harmsen giải thích. “Có lẽ Tưởng muốn thể hiện rằng người Trung Quốc sẵn sàng dốc toàn lực chống Nhật.
“Thượng Hải được lựa chọn làm chiến trường có lẽ vì đây là nơi có số lượng người nước ngoài sinh sống đông đảo ở Trung Quốc khi đó”, Harmsen nói. “Khu vực với nhiều sông ngòi này cũng là một bất lợi với xe tăng Nhật, hơn là những địa hình trống trải khác ở Trung Quốc”.
Ban đầu, người Nhật cũng chưa thực sự muốn giao chiến ở Thượng Hải. Nhật Bản muốn chiếm các vùng đất ở phương bắc trước để chiếm các nguồn tài nguyên quan trọng và cũng nhằm để mắt tới Liên Xô.
Tưởng Giới Thạch đã chủ quan khinh địch khi quyết chiến với quân Nhật ở Thượng Hải.
Hải quân Nhật khi đó vẫn còn khá khiêm tốn, được giao trách nhiệm giữ Thượng Hải. Vụ ám sát sỹ quan Nhật vào ngày 9.8.1937 ở Thượng Hải nếu là thời bình chỉ là một vụ giết người đơn thuần, nhưng trong thời chiến, đó là cái cớ phát động chiến tranh toàn diện.
Quân Trung Quốc do Tưởng Giới Thạch chỉ huy khi đó có những sư đoàn thiện chiến, được huấn luyện ở Đức, là niềm tự hào của quân đội Trung Hoa Dân Quốc. Tưởng muốn đẩy lùi lực lượng đồn trú Nhật ở Thượng Hải xuống sông Hoàng Phố.
Nhưng Trung Quốc thiếu vũ khí hạng nặng và kinh nghiệm sử dụng chúng ở môi trường đô thị. Quân Nhật cố gắng kháng cự, trông chờ vào hải quân và không quân yểm trợ.
Video đang HOT
“Ngay từ giai đoạn đầu tiên, quân Trung Quốc chiếm ưu thế cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn phải gánh chịu thương vong nặng nề. Danh sách những người tử vong không chỉ có binh sĩ mà còn cả sỹ quan – những người phải mất hàng năm trời đào tạo”, Harmsen viết.
Nhắc tới trận chiến Thượng Hải, ký ức được nhắc tới là hình ảnh “máu chảy thành sông”. Một sư đoàn Trung Quốc tham chiến chỉ trong hai ngày đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Những tân binh chỉ mới bước chân vào quân ngũ được dạy cách cầm súng để tung vào Thượng Hải.
Sau một tháng giao tranh, quân tiếp viện của Nhật Bản đổ bộ ở phía bắc thành phố. Đội quân xuôi xuống phía nam, vượt qua nhiều làng mạc, công sự, mở đường máu vào Thượng Hải.
Dù được yểm trợ mạnh mẽ, quân Nhật cũng hứng chịu tổn thất nặng nề. “Thi thể người chết nằm la liệt đến mức không thể hỏa táng kịp. Nhiều khi chỉ là một hố chôn vội vàng”, Harmsen nói. “Đối với một đội quân mà người chết được tôn vinh hơn người sống, trận Thượng Hải đã làm tổn thất lớn đến tinh thần chiến đấu của quân Nhật”.
Người Nhật hoàn toàn bất ngờ về cách Trung Quốc quyết tâm chiến đấu. Họ chờ đợi một trận đánh nhanh thắng nhanh nhưng hóa ra lại phải mất tới hơn 3 tháng.
Đến tháng 11.1937, quân tiếp viện đợt 2 đổ bộ ở phía nam Thượng Hải, siết chặt vòng vây buộc Tưởng Giới Thạch phải rút quân. Không có con số thương vong chính xác của hai bên, nhưng theo Harmsen, người Trung Quốc ước tính có 187.000-300.000 binh sĩ của cả hai bên thiệt mạng.
Binh sĩ Nhật giương cao lá cờ sau khi chiếm được Thượng HảI.
Sử sách Nhật chép rằng có 9.100 người chết, nhưng con số binh sĩ thiệt mạng của quân Nhật lớn hơn thế nhiều, theo các nguồn tin khác nhau là 18.000 người chết và 40.000 người khác bị thương.
Harmsen là người đưa ra so sánh giữa trận Thượng Hải và trận đánh huyền thoại ở Stalingrad trong Thế chiến 2, bởi binh sĩ Nhật và Trung Quốc cũng phải giành giật từng căn nhà, góc phố trong môi trường tác chiến đô thị.
Thượng Hải cũng là nơi diễn ra trận đánh thể hiện sức mạnh của quân đội đế quốc Nhật và bên kia là sự quyết tâm kháng cự của người Trung Quốc. Nhiều người phương Tây có mặt ở Thượng Hải trong giai đoạn này đã chứng kiến toàn bộ sự khốc liệt của cuộc chiến.
Đến cuối cùng, ngày 26.11.1937, quân Trung Quốc do Tưởng Giới Thạch chỉ huy thất bị hoàn toàn. Các sư đoàn thiện chiến nhất hứng chịu tổn thất không thể phục hồi, mở đường để quân Nhật tiến sâu hơn vào lãnh thổ Trung Quốc.
Theo danviet.vn
Cuộc chiến đẫm máu nhất châu Á mà Trung Quốc chưa từng chiến thắng
Trung Quốc và Nhật Bản từng trải qua những giai đoạn đối đầu căng thẳng, khởi đầu từ cuộc chiến tranh Trung-Nhật thời nhà Thanh năm 1894 và sau đó là cuộc chiến làm tiền đề cho Thế chiến 2.
Trung Quốc và Nhật Bản từng trải qua cuộc chiến đẫm máu khiến 20 triệu người chết.
Chiến tranh Trung-Nhật lần 2 mở màn năm 1937 và mãi đến khi kết thúc Thế chiến 2. Suốt một thời gian dài Trung Quốc ít nhắc đến giai đoạn chiến tranh này. Ở thời điểm đó sức mạnh của Trung Quốc ra sao? Liệu người Nhật có dễ dàng bành trướng ở Trung Hoa? Loạt bài dài kỳ này sẽ làm rõ những câu hỏi trên.
Các nhà sử học cho rằng nguồn gốc của cuộc Chiến tranh Trung-Nhật lần 2 năm 1937 bắt nguồn từ cuộc chiến lần đầu tiên giữa nhà Thanh với đế quốc Nhật trước đó khoảng 50 năm, theo History.
Sau cuộc chiến lần thứ nhất, đế quốc Nhật đánh bại Trung Quốc, chiếm đóng Hàn Quốc. Năm 1931, Nhật Bản thừa thắng đem quân chiếm đóng hoàn toàn Mãn Châu - vùng đất ở đông bắc Trung Quốc, nơi khởi nguồn của nhà Thanh. Đây là nơi có trữ lượng khoáng sản dồi dào, nhưng được phòng thủ hết sức yếu kém vì ở vùng đông bắc hoang sơ, giá lạnh.
Nguyên nhân khơi mào chiến tranh Trung-Nhật lần 2
Nhật Bản trong giai đoạn trước Thế chiến 2 đánh dấu bước phát triển mạnh, rất khát tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là kim loại, dầu mỏ.
Trung Quốc khi đó rơi vào cuộc nội chiến căng thẳng, giữa phe Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và đảng Cộng sản do lãnh tụ Mao Trạch Đông lãnh đạo.
Năm 1937, binh sĩ Nhật đóng quân ở Phong Đài (Fengtai), khi đó là khu rừng biệt lập nằm ở phía tây nam Bắc Kinh. Một trong những thành trì bảo vệ Bắc Kinh ở Phong Đài là thành Uyển Bình. Nơi đây có cây cầu Marco Polo dẫn thẳng đến Bắc Kinh.
Quân Nhật khi đó liên tục tập trận, khuếch trương thanh thế nhưng chính quyền Trung Quốc không có ý định ngăn chặn, chỉ yêu cầu phía Nhật thông báo trước các cuộc tập trận để trấn an dân chúng.
Nhật Bản chỉ đồng ý lấy lệ. Quân Nhật càng ngày càng tiến gần cầu Marco Polo hơn.
Những gì người Nhật cần là một cái cớ, giống như vụ đánh bom tuyến đường sắt ở Mãn Châu. Đêm ngày 7.7.1937, quân Nhật tổ chức một cuộc tập trận bất ngờ gần cầu Marco Polo. Binh nhì Shimura Kikujiro trong khi tập trận đã tách đội hình, đi vào rừng để giải quyết nhu cầu vệ sinh.
Khi Kikujiro quay trở lại, các binh sĩ đã rời đi. Binh nhì này phải mất nhiều giờ mò mẫm trong đêm tối mới trở về được doanh trại. Trong khi đó, phía Nhật yêu cầu người Trung Quốc mở cổng thành Uyển Bình để tìm binh nhì đi lạc.
Binh nhì Nhật Bản đi lạc khơi mào chiến tranh Trung-Nhật lần 2.
Phía Trung Quốc quyết không mở cổng vì cho rằng không thể có chuyện binh sĩ Nhật đi lạc được vào trong thành. Lính Trung Quốc đề nghị sẽ tự tìm kiếm nhưng vẫn không được quân Nhật đồng ý.
Các tài liệu mật được Thư viện Quốc hội Nhật Bản (NDL) công khai năm 2013 cho thấy các tướng lĩnh Nhật đã muốn lợi dụng sự cố này để phát động tấn công, dù binh nhì Kikujiro sau đó đã trở về đơn vị an toàn.
Trong đêm đó, giao tranh nổ ra nhưng không rõ bên nào nổ súng trước. Đến rạng sáng ngày 8.7.1937, một đơn vị lính Nhật tìm cách mở đường máu tiến vào thành, nhưng bị đẩy lùi.
Phía Trung Quốc một mặt tìm cách đàm phán, mặt khác huy động quân hỗ trợ thành Uyển Bình. Đến 4 giờ 50 phút sáng, chiến tranh Trung-Nhật lần hai bùng nổ.
Chỉ trong vòng một tháng, Bắc Kinh và cảng Thiên Tân - cảng biển lớn nhất miền bắc Trung Quốc rơi vào tay quân Nhật.
Cuộc chiến Trung Quốc chưa bao giờ thắng
Lãnh thổ Trung Quốc giai đoạn này chủ yếu do Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch kiểm soát. Năm 1937, Quốc dân Đảng có 1,7 triệu quân, so với Nhật Bản ở giai đoạn đầu chỉ có 600.000 quân.
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Mao Trạch Đông lúc này vừa hoàn thành cuộc Vạn Lý Trường Chinh, chưa sẵn sàng kháng chiến chống Nhật.
Ngược lại, Tưởng Giới Thạch lại chủ trương phát động chiến tranh quy ước với quân Nhật. Kết quả là Quốc Dân Đảng liên tục hứng chịu những thất bại nặng nề.
Ước tính trong 8 năm chiến tranh Trung-Nhật, Trung Quốc đã mất tổng cộng 14-20 triệu người, bao gồm cả binh sĩ và dân thường. Đây được coi là cuộc chiến đẫm máu nhất ở châu Á trong lịch sử hiện đại.
Giai đoạn đầu cuộc chiến, Tưởng Giới Thạch phải một mình chống Nhật dù đã liên minh với Mao Trạch Đông, do cả Liên Xô và Mỹ khi đó đều chưa tham chiến.
Khi Liên Xô mở mặt trận chống phát xít Đức trong Thế chiến 2, sự giúp đỡ đối với Trung Quốc vẫn rất hạn chế vì Moscow không muốn phải vừa chống Đức ở mặt trận phía tây, vừa đối phó quân Nhật ở phía đông.
Lính Trung Quốc rút lui trước đà tiến công của quân Nhật.
Phải tới tận khi Mỹ quyết định tham chiến, Washington mới bắt đầu tác động lên Liên Xô về vấn đề Trung Quốc để tăng cường viện trợ cho các lực lượng quân sự Trung Quốc chống Nhật.
Trên thực tế, phe Quốc dân Đảng đã liên tiếp thất bại trong các trận chiến lớn với quân Nhật, để mất các thành phố quan trọng như Thượng Hải, Quảng Châu, khiến uy tín của Tưởng Giới Thạch giảm sút.
Đến năm 1941, quân Nhật kiểm soát toàn bộ các vùng ven biển trù phú ở Trung Quốc và gần như án binh bất động, chuyển hướng sang mặt trận Thái Bình Dương chống Mỹ.
Sau khi cục diện Thế chiến 2 an bài với chiến thắng thuộc về phe Đồng Minh, đội quân do Mao Trạch Đông lãnh đạo nhân cơ hội giành chính quyền, buộc Tưởng Giới Thạch rút sang Đài Loan.
Đây là lý do các nhà sử học trên thế giới đều đồng tình rằng Trung Quốc chưa bao giờ thắng Nhật Bản trong cuộc chiến lần 2. Nhật rút quân khỏi Trung Quốc là do đầu hàng Đồng Minh. Trung Quốc với tư cách là đồng minh chống phát xít, nghiễm nhiên là phe chiến thắng.
Ngày nay, chính sử Trung Quốc thừa nhận vai trò kháng chiến chống Nhật với tổn thất nặng nề của phe Quốc dân Đảng, theo New York Times. Các lực lượng của Mao Trạch Đông khi đó có quân số ít ỏi hơn, chủ yếu chiến đấu ở khu vực Đông Bắc với chiến thuật chiến tranh du kích.
Theo danviet.vn
Nguyên soái Liên Xô đập tan chiến dịch đẫm máu nhất lịch sử của phát xít Đức Tên tuổi của Nguyên soái Georgy Zhukov vang xa khắp trên thế giới khi ông chỉ huy Hồng quân Liên Xô chặn đứng phát xít Đức ở cửa ngõ Mocsow và sau này là trận Stalingrad mang ý nghĩa quyết định. Zhukov cưỡi ngựa trắng tại Quảng trường Đỏ. Ngày 22.6.1941, mặc dù có đã ký với Liên Xô hiệp ước không xâm...