Trái phiếu Chính phủ – Lời giải bài toán cân đối ngân sách năm 2020
Diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19 và những hệ quả tiêu cực đối với nền kinh tế sẽ tạo áp lực không nhỏ lên cân đối ngân sách Nhà nước trong năm 2020.
Chính vì vậy, việc huy động vốn từ các nguồn khác nhau để đảm bảo cân đối ngân sách là nhiệm vụ cấp thiết và huy động vốn từ trái phiếu Chính phủ được coi là một trong những kênh quan trọng nhất. Đây là nội dung trao đổi giữa phóng viên Thông tấn xã Việt Nam và Tổng thư ký Hiệp hội Trái phiếu Việt Nam (VBMA), ông Đỗ Ngọc Quỳnh.
Một phiên bán đấu giá tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX). Ảnh: Phạm Hậu/TTXVN
Ông có nhận định gì về phát hành trái phiếu Chính phủ trong thời gian qua?
Tính từ đầu năm đến ngày 20/4/2020, phát hành trái phiếu Chính phủ thông qua hình thức đấu thầu tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) là 33.513 tỷ đồng, đạt 13% kể hoạch đấu thầu của năm 2020. Kế hoạch đấu thầu trái phiếu Chính phủ năm 2020 là 260.000 tỷ đồng. Riêng trong quý I/2020, kết quả đấu thầu trái phiếu Chính phủ chỉ đạt 55,5% kế hoạch của quý trong khi quý I/2019, kết quả đấu thầu đạt 95% kế hoạch quý.
Xét trên một góc độ khác, lãi suất trúng thầu trái phiếu Chính phủ (lãi suất đi vay của Chính phủ) đã có một giai đoạn giảm liên tục kể từ đầu năm 2020 và tạo nên những kỷ lục mới: kỳ hạn 5 năm còn 1,8%/năm, kỳ hạn 10 năm 2,18%/năm và kỳ hạn 30 năm còn 3%/năm – mức giảm rất sâu so với năm 2019, giúp cho Chính phủ giảm chi phí huy động vốn.
Một điểm rất tích cực nữa là tỷ trọng phát hành các kỳ hạn dài từ 20 – 30 năm chiếm khoảng 30% khối lượng phát hành, tăng mạnh so với tỷ trọng gần 4% cùng kì năm 2019, giúp kéo dài kỳ hạn danh mục thị trường trái phiếu Chính phủ, ổn định được nguồn vốn vay.
Ông đánh giá như thế nào về vai trò của vốn trái phiếu Chính phủ với nền kinh tế trong giai đoạn này?
Diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19 và những hệ quả tiêu cực đối với nền kinh tế sẽ tạo áp lực không nhỏ lên cân đối ngân sách của Chính phủ trong năm 2020.
Cụ thể, thu ngân sách nhà nước dự kiến sẽ sụt giảm so với dự toán năm 2020 ở tất cả cấu phần thu nội địa, thu dầu thô và thu xuất nhập khẩu do sự lao dốc của giá dầu, sự đình trệ của các hoạt động thương mại xuất nhập khẩu, hoạt động kinh doanh trong nước và các biện pháp ưu đãi giảm thuế phí để hỗ trợ doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chi ngân sách nhà nước cũng chịu áp lực gia tăng từ các khoản chi cho y tế, phòng chống dịch bệnh và các khoản chi an sinh xã hội.
Để góp phần kích cầu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, chi đầu tư phát triển sẽ được đẩy mạnh với tổng vốn dự kiến lên đến 700.000 tỷ đồng. Theo đó, bội chi ngân sách nhà nước được Bộ Tài chính ước tính sẽ tăng thêm khoảng 1,5-1,6% GDP so với dự toán lên mức 5-5,1% GDP.
Mức gia tăng thâm hụt này cũng đồng nghĩa với việc Bộ Tài chính sẽ phải xem xét huy động vốn từ các nguồn khác nhau để đảm bảo cân đối ngân sách; trong đó, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ được coi là nguồn quan trọng.
Video đang HOT
Từ đầu năm đến nay, thị trường trái phiếu Chính phủ sơ cấp có dấu hiệu hạ nhiệt, theo ông đâu là nguyên nhân?
Nguyên nhân làm cho thị trường trái phiếu Chính phủ sơ cấp hạ nhiệt, theo tôi có thể do một số yếu tố như cân đối ngân sách giai đoạn đầu năm khá dư dả. Sau năm 2019 đạt thặng dư khá lớn (số liệu hết 11 tháng năm 2019 cho thấy thặng dư đạt khoảng 114.000 tỷ đồng) thì quý I/2020, dù chịu ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, cán cân ngân sách tiếp tục cho tín hiệu tích cực với mức thặng dư 48.000 tỷ đồng theo báo cáo của BộTài chính. Điều này có thể đã làm giảm áp lực huy động vốn của chính phủ qua các kênh vay nợ; trong đó có việc phát hành trái phiếu Chính phủ.
Trong khi đó, do tác động của dịch bệnh COVID-19 lên nền kinh tế dẫn đếnviệc Chính phủ phải đưa ra các gói hỗ trợ kích thích nền kinh tế. Điều nàykhiến một số nhà đầu tư có kỳ vọng nguồn cung trái phiếu Chính phủ sẽ gia tăng trong thời gian tới nên có tâm lý chờ đợi, làm cho tỷ lệ trúng thầu thấp.
Ngoài ra, vì kỳ vọng của bên phát hành và các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp và thứ cấp có khoảng cách khá lớn dẫn đến lãi suất trái phiếu Chính phủ phát hành trên thị trường sơ cấp trong nhiều thời điểmthấp hơn nhiều lãi suất giao dịch trên thị trường thứ cấp.
Theo ông hiện nay Việt Nam có những khó khăn, thuận lợi gì khi phát hành trái phiếu Chính phủ?
Dù bị ảnh hưởng của dịch bệnh nhưng nền tảng kinh tế của Việt Nam đã được củng cố trong 10 năm thực hiện tái cấu trúc gần đây đang cho thấy khả năng chống đỡ với khủng hoảng đã tốt hơn rất nhiều thể hiện ở sự ổn định về lãi suất, tỷ giá, sự hồi phục của chỉ số chứng khoán, các chỉ số kinh tế vĩ mô…tạo niềm tin cho các các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, các khung khổ chính sách và cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu đã được hoàn thiện, rõ ràng minh bạch.Tính thanh khoản của thị trường thứ cấp khá cao giúp nhà đầu tư có thể dễ dàng mua bán trái phiếu nên nhu cầu đối với đầu tư sơ cấp cũng nhiều hơn.
Các ngân hàng hiện nay hướng tới quản lý cơ cấu tài sản an toàn các tiêu chuẩn quốc tế như Basel II hay hay Thông tư 41/2016/TT-NHNN (Thông tư 41 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 30/12/2016, chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2020). Theo đó, nhu cầu đối với các tài sản phi rủi ro như trái phiếu Chính phủ sẽ nhiều hơn.
Cơ cấu nhà đầu tư cũng đa dạng hóa hơn; trong đó, vai trò của các tổ chức phi ngân hàng như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm nhân thọ ngày càng lớn giúp cho độ ổn định của thị trường cao hơn.
Dù vậy, trong ngắn hạn, những diễn biến phức tạp và khó lường của dịch bệnh đang ảnh hưởng lớn đến tâm lý các nhà đầu tư.
Ngoài ra, sản phẩm trên thị trường cũng chưa đa dạng, các nhà đầu tư chưa có các công cụ để phòng vệ rủi ro hiệu quả.
Chênh lệch lãi suất giữa thị trường thứ cấp và sơ cấp hiện ở mức cao, dẫn đến việc phát hành trên thị trường sơ cấp không hấp dẫn nhà đầu tư.
Ông có đề xuất gì để tăng tính hấp dẫn cho thị trường trái phiếu Chính phủ trong giai đoạn hiện nay?
Trong điều kiện hiện nay, để tăng tính hấp dẫn của thị trường trái phiếu, Chính phủ có thể xem xét tăng phát hành thêm các trái phiếu có kỳ hạn ngắn, phù hợp với nhu cầu đầu tư của các tổ chức tín dụng; thực hiện hoán đổi các kỳ hạn lẻ về kỳ hạn chẵn giúp thị trường tăng tính thanh khoản; miễn hoặc giảm phí giao dịch trái phiếu Chính phủ tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn thị trường khó khăn
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý có thể phát triển công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất và tỷ giá cho nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị trường trái phiếu Việt Nam.
Về dài hạn, Bộ Tài chính, cụ thể là Kho bạc Nhà nước nên có sự dẫn dắt thị trường theo hướng lãi suất mục tiêu của các kỳ hạn trái phiếu Chính phủ; chủ động nâng khối lượng gọi thầu trong các giai đoạn thị trường thuận lợi, nhu cầu đầu tư nhiều và ngược lại nhằm hạn chế và giảm thiểu các tình huống lãi suất trái phiếu Chính phủ thứ cấp giảm nhanh và mạnh do thiếu các nguồn cung hàng trong ngắn hạn. Vì sự sụt giảm này cũng tiềm ẩn mức bật tăng mạnh lại nhiều hơn dẫn tới tác động tiêu cực tới nhà đầu tư.
Trân trọng cảm ơn ông!
So găng "đấu trường" bảo hiểm
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, sự thay đổi nhận thức về bảo hiểm nhân thọ (BHNT) của người dân, thị trường BHNT ở Việt Nam đang nóng dần lên. Và trên đấu trường BHNT hiện nay có 2 kênh phân phối bảo hiểm chính: đó là kênh truyền thống thông qua văn phòng đại lý (gọi tắt là kênh đại lý) và kênh phân phối qua ngân hàng (bancassurance).
Trên thực tế có nhiều ý kiến trái chiều nhau: các tư vấn viên bán bảo hiểm qua kênh đại lý thì khuyên khách hàng không nên mua BHNT tại ngân hàng; còn banker nắm trong tay quá nhiều lợi thế mà nếu biết khai thác thì bancassurance chính là xu thế bán BHNT của hôm nay và ngày mai. Dưới góc nhìn của một khách hàng, một tư vấn viên bảo hiểm độc lập, tác giả xin cung cấp một vài thông tin để chúng ta cùng quan sát và phân tích một cách khách quan trận "thư hùng" giữa bancassurane và kênh phân phối bảo hiểm qua đại lý.
Bancassurance vẫn đầy lợi thế
Thứ nhất, bancassurance tuy sinh sau đẻ muộn nhưng lại có mạng lưới và số lượng nhân sự bán hàng vượt trội so với kênh phân phối bảo hiểm qua đại lý. Với hơn 30 ngân hàng, với hàng chục nghìn điểm giao dịch phủ khắp toàn quốc và hàng trăm ngàn nhân sự đang công tác tại các ngân hàng, bancassurane đang áp đảo kênh đại lý về cơ hội bán hàng và chăm sóc khách hàng. Với bộ KPI của các ngân hàng hiện nay, mỗi banker hầu như đều được giao chỉ tiêu về BHNT, vì thế khi tất cả banker đều trở thành một tư vấn viên bảo hiểm thực thụ thì kênh phân phối bảo hiểm qua đại lý phải hết sức dè chừng. Bởi lẽ, mạng lưới và nhân viên chính thức của 18 công ty BHNT hiện tại ở Việt Nam còn quá nhỏ bé so với tổng số lượng ở các ngân hàng cộng lại. Và một khi mạnh về mạng lưới, đông về số lượng nhân sự thì công tác bán bảo hiểm và chăm sóc sau bán hàng vẫn có nhiều lợi thế hơn.
Thứ hai, banker có lợi thế về hệ khách hàng tiềm năng hơn các tư vấn viên tại các đại lý BHNT truyền thống. Bởi lẽ, các đại lý bảo hiểm của tất cả công ty BHNT hiện nay mới chỉ phục vụ khoảng 9,8 triệu khách hàng - là con số nhỏ bé so với số lượng khách hàng mà tất cả các ngân hàng đang phục vụ. Với hàng chục triệu khách hàng tại các ngân hàng, tỷ lệ khách hàng tham gia BHNT còn rất thấp. Và đây chính là cơ hội để bancassurance vươn mình vượt đối thủ đó chính là kênh truyền thống. Ngoài ra, banker luôn có sẵn trong tay hệ khách hàng dồi dào với thông tin rất chi tiết như: thông tin cá nhân, thông tin tài chính khách hàng, sở thích, nhu cầu khách hàng, các mối quan hệ của khách hàng,...sau nhiều năm chăm sóc trong công tác huy động vốn, cho vay và bán các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng.
Đối với kênh đại lý, hàng ngày phải gõ cửa từng nhà hoặc mò mẫm gọi hàng chục cuộc gọi để hy vọng có một cuộc hẹn với khách hàng. Còn banker có thể biết gần như là tất cả về hệ khách hàng của mình từ sức khỏe tài chính đến sở thích và tâm tư tình cảm. Như vậy, rõ ràng là banker đang nắm một lợi thế rất lớn so với tư vấn viên tại các đại lý bảo hiểm nhân thọ truyền thống.
Thứ ba, banker có xuất phát điểm về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và sự trẻ trung hơn rất nhiều so với các tư vấn viên bảo hiểm kênh đại lý. Hầu hết nhân viên ngân hàng hiện nay đều đã tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học đúng với các chuyên ngành về tài chính, kinh tế, ngâ hàng, bảo hiểm. Còn tư vấn viên bảo hiểm tại đại lý truyền thống thì rất đa dạng: từ nông dân đến giáo viên, viên chức về hưu, không phân biệt trình độ và tuổi tác đều có thể trở thành tư vấn viên bảo hiểm. Thật ra trình độ hay tuổi tác không phải là vấn đề quyết định để trở thành một tư vấn viên bảo hiểm giỏi. Tuy nhiên, xét về tổng thể, hệ thống ngân hàng đang nắm trong tay lợi thế về nguồn nhân sự trẻ và có trình độ hơn kênh đại lý. Vì vậy, về lâu dài mô hình bancassurance có thể đào tạo và phát triển đội ngũ tư vấn viên ổn định, rộng khắp và có chất lượng hơn. Còn tư vấn viên bảo hiểm ở các đại lý thường xuyên biến động, do ngành bảo hiểm nhân thọ có đặc thù riêng của nó là chỉ có những người thật sự có năng lực mới tồn tại được trong ngành.
Thứ tư, banker có nhiều sản phẩm dịch vụ đa dạng để bán cho khách hàng chứ không chỉ là bảo hiểm nhân thọ. Còn tư vấn viên tại các đại lý BHNT chỉ có duy nhất một thứ để bán đó chính là sản phẩm BHNT.
Ví dụ, để có thể bán được một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, banker có thể ưu đãi cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ khác như huy động, tín dụng, kiều hối, du học, thẻ,... Và trên thực tế, khi khách hàng sử dụng càng nhiều sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thì mức độ gắn bó càng lâu dài. Và chỉ có một vài phần trăm số lượng khách hàng ở các ngân hàng đang sử dụng dịch vụ bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, dư địa để các ngân hàng phát triển kênh bancassurance là rất lớn. Ở đây, chúng ta không nói đến vấn đề "bán bia kèm lạc". Và thực tế các ngân hàng đã và đang thay đổi khẩu vị bán BHNT, bán BHNT kèm tín dụng không còn là kênh chính yếu trong phân phối BHNT về lâu dài tại các ngân hàng. Mà bộ phận dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng sẽ nhận sứ mạng bán BHNT và cạnh tranh sòng phẳng với các đại lý BHNT.
Thứ năm, banker có lợi thế về uy tín nghề nghiệp tốt hơn so với tư vấn viên tại các đại lý. Bởi lẽ, hiện nay nhiều tư vấn viên BHNT tại các đại lý đâu đó vẫn chưa tạo thiện cảm cho khách hàng. Cụ thể: tư vấn viên tại các đại lý còn quá đeo đuổi, rình rập để chào bán bảo hiểm làm khách hàng phát sợ. Rồi nhiều trường hợp, tư vấn viên các đại lý thu tiền của khách hàng nhưng không nộp mà chiếm đoạt cá nhân. Chẳng hạn như tư vấn viên của Văn phòng Tổng đại lý Công ty BHNT P ở tỉnh T thu tiền phí của khách hàng rồi không nộp vào công ty làm ảnh hưởng đến quyền lợi khách hàng. Thậm chí có trường hợp khi khách hàng xảy ra sự kiện bảo hiểm thì mới giật mình phát hiện tư vấn viên chưa nộp tiền vào công ty. Chính những trường hợp như vậy làm xói mòn lòng tin của khách hàng đối với BHNT.
Tuy nhiên, với mô hình bancassurance thì công tác quản lý rủi ri chặt chẽ hơn rất nhiều. Tư vấn viên tại các ngân hàng hoàn toàn không được thu tiền khách hàng. Việc nộp phí của khách hàng được thực hiện qua chuyển khoản hoặc nộp tiền trực tiếp tại quầy, có hóa đơn, chứng từ rõ ràng và có camera lưu trữ hình ảnh tối thiểu đến cả 100 ngày. Đây là điểm khác biệt, ít rủi ro hơn (nếu không muốn nói là không có rủi ro) so với việc khách hàng nộp tiền cho tư vấn viên tại các kênh đại lý.
Thứ sáu, khách hàng tham gia BHNT tại ngân hàng sẽ đồng thời được ngân hàng và công ty BHNT phục vụ, chăm sóc. Về bản chất, các công ty BHNT sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với hợp đồng BHNT mà khách hàng tham gia. Tuy nhiên, ngoài công ty BHNT thì ngân hàng cũng có trách nhiệm phục vụ và chăm sóc khách hàng trong suốt chiều dài của hợp đồng BHNT. Bởi lẽ, trước khi trở thành khách hàng của Công ty BHNT thì khách hàng đã là khách hàng của chính ngân hàng. Và không một ngân hàng nào muốn khách hàng mình phải phiền lòng về bất kỳ chất lượng dịch vụ nào, kể cả BHNT. Vì vậy, khách hàng mua BHNT tại ngân hàng hoàn toàn an tâm là "thượng đế" của ít nhất 2 doanh nghiệp là ngân hàng và công ty BHNT.
Sau cùng, việc đóng phí BHNT tại các ngân hàng linh hoạt và thuận tiện hơn tại các đại lý BHNT truyền thống. Cụ thể, khách hàng có thể đề nghị ngân hàng cấp thẻ tín dụng để sử dụng thanh toán phí BHNT lâu dài. Hoặc khách hàng cũng có thể gửi tiết kiệm hàng tháng để chủ động nguồn tiền đóng phí BHNT hàng năm, vừa có lãi suất tại ngân hàng, vừa an tâm về kế hoạch tài chính để đóng phí BHNT. Đây là điều các văn phòng đại lý BHNT truyền thống không thể làm được (do đại lý BHNT không có chức năng cấp thẻ tín dụng, cũng như không thể huy động tiền gửi tiết kiệm hàng tháng cho khách hàng như ở ngân hàng).
Bancassurance: cũng cần hoàn thiện hơn
Trở lại trận thư hùng giữa bancassurance và kênh phân phối bảo hiểm truyền thống qua đại lý. Mặc dù, bancassrance đang nắm trong tay nhiều lợi thế như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, thực tế tổng phí BHNT phát hành qua ngân hàng còn khá khiêm tốn so với kênh đại lý và chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế bancassurane. Và sau đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên và cũng là những điều mà các ngân hàng cần quan tâm để hoàn thiện hơn. Cụ thể, các nội dung tồn tại của mo hình bancassurance như sau:
Thứ nhất, mặc dù nắm trong tay đội ngũ banker hùng hậu, trẻ trung và có trình độ cao. Tuy nhiên, công tác đào tạo tại các ngân hàng để các banker trở thành một tư vấn viên bảo hiểm thực thụ hầu như chưa được quan tâm. Hiện nay, phần lớn banker không tự tin để tư vấn trọn vẹn một bảng minh họa hay một hợp động bảo hiểm cho khách hàng. Nếu không nắm quy tắc sản phẩm, không nắm luật kinh doanh bảo hiểm, không có kỹ năng tư vấn và sự trải nghiệm,...thì dù nắm trong tay nhiều lợi thế về hệ khách hàng thì banker vẫn không thể tự tin so găng với tư vấn viên bảo hiểm tại các đại lý trên đấu trường giành giật khách hàng.
Thứ hai, banker chưa có sự "lì lợm" và kiên trì cần thiết đối với một người làm nghề tư vấn viên BHNT. Phải thừa nhận rằng, sức chiến đấu của banker trên mặt trận bán BHNT rất thấp. Banker không có sự nhẫn nại, ân cần, tận tụy và "lụy" khách hàng khi cần thiết như các tư vấn viên bảo hiểm của các đại lý BHNT. Bởi lẽ, tâm thế banker đâu đó vẫn xem BHNT chỉ là một sản phẩm bán chéo, bán được thì tốt mà không bán được cũng chẳng sao! Khác với tư vấn viên bảo hiểm tại các đại lý truyền thống, banker không bán được BHNT cũng không ảnh hưởng nhiều đến thu nhập nên đôi khi mất động lực bán hàng.
Thứ ba, banker thật sự chưa có khát vọng bán BHNT như tư vấn viên tại các đại lý BHNT. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến kết quả bán BHNT của một banker thấp hơn rất nhiều so với một tu vấn viên BHNT tại các đại lý. Nếu chưa am hiểu sản phẩm BHNT thì banker hoàn toàn có thể tự trau dồi; nếu chưa có sự kiên trì thì banker cũng có thể tự rèn luyện. Nhưng nếu không có khát vọng bán BHNT thì mọi cố gắng để thành best seller về BHNT của banker trở nên vô nghĩa. Động lực và khát vọng bán BHNT không cần đợi ai trao cho mình mà mỗi banker phải tự tạo cho mình và từ đó lan tỏa cho nhiều banker đồng nghiệp khác.
Người viết xin khép lại bài viết này với một hình ảnh gần gũi và chân thực nhất để mỗi banker tự suy ngẫm:"một tư vấn viên BHNT tại các văn phòng đại lý truyền thống không trẻ trung bằng chúng ta, không được đào tạo bài bản, chính quy về tài chính như chúng ta ở giảng đường, không có hệ khách và không có nhiều mối quan hệ xã hội như chúng ta,...nhưng mỗi tháng họ bán trung bình từ 100 đến 500 triệu APE (Annual Premium Equivalent)". Là một banker từng kiêu hãnh với cái gọi là kinh nghiệm và sự trải nghiệm trong ngành tài chính, ngân hàng, bạn nghĩ gì về lòng tự tôn của chính mình trong công tác bán BHNT?
Cẩn trọng tạm ứng tiền từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn dài và để khắc phục khó khăn tài chính cho người đóng, có rất nhiều sự "linh hoạt" được áp dụng, nhưng rủi ro hợp đồng mất hiệu lực cũng hiện hữu. Ảnh Shutterstock. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong mọi thời điểm các công ty bảo hiểm nhân thọ đã...