Trai gái 2 làng ở Bắc Giang không bao giờ lấy nhau
Ở đất Hiệp Hòa, Bắc Giang, có những làng mà trai gái không bao giờ lấy nhau. Họ coi nhau như anh em ruột thịt trong nhà…
Từ tục kết chạ
Làng Nga Trại và làng Đông Lâm cùng ở xã Hương Lâm, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Theo các cụ cao tuổi ở đây kể lại, cách đây đã hàng trăm năm, làng Nga Trại khi đó mới được thành lập nên còn nhiều khó khăn. Người dân làng Đông Lâm thấy vậy đã thường xuyên giúp đỡ.
Cảm động trước những việc ân nghĩa ấy, người làng Nga Trại xin được kết chạ (kết nghĩa) với Đông Lâm. Cụ Nguyễn Hữu Trừ (80 tuổi, thôn Nga Trại) cho biết, dù kết nghĩa anh em nhưng hai làng không phân biệt đâu là làng anh, đâu là làng em. Tức người của làng này gọi người kia là anh (chị) và xưng em một cách trân trọng.
Cũng từ đó, hương ước của hai làng định ra lệ 6 năm một lần đón nhau, mỗi năm một lần đến với nhau. Trong những ngày gặp gỡ ấy, bên khách cử ra 10 người bao gồm đại diện các cụ, thanh niên, chính quyền thôn và nhất thiết phải có cụ quan đám (người trông coi đình làng) mang theo một đôi sáp (nến), một thẻ hương, cau trầu… mang đến biếu chủ nhà.
Chiều sông Cầu.
Để tỏ lòng chân thành, chủ nhà cử thành phần tương tự như bên khách và ra tận cổng làng đón cùng vào đình cúng tế. Hiện nay hai làng vẫn giữ được lệ đón nhau vào ngày 10 và 12/9 (âm lịch) hàng năm như một biểu tượng trường tồn của tình cảm hai bên.
Cũng là kết chạ nhưng hai làng Xuân Biều và Cẩm Xuyên (xã Xuân Cẩm, Hiệp Hòa) lại hơi khác với Nga Trại – Đông Lâm một chút. Theo cụ Ngô Đình Kế, 90 tuổi (thôn Xuân Biều), một số người làng Xuân Biều xưa theo Đức Thánh Tam Giang ngược dòng lên khai khẩn đất mới và lập ra làng Cẩm Xuyên.
Do cùng chung thành hoàng làng, cùng xuất phát là đất Xuân Biều nên hai làng kết chạ với nhau. Ở đây định rõ, làng Xuân Biều là làng anh, Cẩm Xuyên là làng em. Cùng sáp tuổi với nhau thì người làng Cẩm Xuyên luôn cung kính gọi người Xuân Biều là anh, chị, không dám sai lời.
Ngoài hai cặp làng kể trên, dọc bờ sông Cầu người ta còn thấy làng Hương Câu kết chạ với làng Phúc Linh (xã Hương Lâm), làng Trâu Lỗ (xã Mai Đình, Hiệp Hoà) kết chạ với làng Kim Lũ (Sóc Sơn, Hà Nội). Không chỉ là sự kết giao trên hương ước mà đó còn là tình cảm thực sự của hai làng, một thứ tình cảm được hun đúc bằng sự nâng niu trân trọng của tất cả những người ở hai cộng đồng dân cư khác nhau.
Video đang HOT
Giúp nhau phát triển
Những làng đã kết chạ với nhau có một thứ lệ bất thành văn. Suốt hàng trăm năm nay, khi làng này có việc thì làng kia vội vã cử người, mang phương tiện, tiền bạc đến giúp đỡ.
Ông Nguyễn Văn Uyên (75 tuổi), làng Nga Trại kể: “Lúc thời vụ, hai làng cho nhau mượn trâu bò để cày, cấy. Có năm bên Đông Lâm ngập lụt, làng tôi cử hàng trăm người sang hộ đê, cứu lúa, chạy lụt. Ngày Nga Trại làm đình, bên làng anh lại giúp hàng chục triệu đồng mà không hề tính toán gì. Đến khi nộp thuế, nếu làng này thiếu thì làng kia sẵn sàng cho vay để nộp đúng, nộp đủ cho nhà nước”.
Cụ Ngô Đình Kế đang kể lại chuyện kết chạ giữa hai làng.
Cụ Kế nhớ lại: “Năm 1995, khi ngôi đình Xuân Biều xuống cấp, Cẩm Xuyên cử người đến làm cùng. Đến khi Cẩm Xuyên xây dựng đình thì Xuân Biều lại cung cấp miễn phí toàn bộ ngói làm đình và đóng góp hàng trăm ngày công để nâng nền đình lên 3 mét so với trước đây”. Cứ như thế, họ giúp đỡ nhau trong mọi công việc với một tinh thần vô tư, không tính toán thiệt hơn.
Đặc biệt, mỗi khi Tết đến, xuân về, những người dân ở hai làng lại tất bật dọn dẹp nhà cửa, trữ nhiều thức ăn Tết với sự mong chờ những người anh em ở các làng kết chạ tới thăm. Ai cũng muốn đón người anh em về nhà mình để ăn, ở, kể cả có thể chưa biết người đó bao giờ.
Trai gái không lấy nhau
“Tục lệ ấy khiến con người cảm thấy yêu thương, trân trọng nhau hơn. Đó là một nét văn hóa không dễ gì có thể giáo dục theo cách thông thường”. Ông Ngô Đình Dũng, Bí thư Đảng uỷ xã Xuân Cẩm (Hiệp Hòa, Bắc Giang)
Trong giao tiếp, người dân hai làng nhất mực cung kính với nhau nhưng trai, gái hai làng không bao giờ được lấy nhau. “Xuất phát từ ý nghĩa của việc kết chạ tức là coi nhau như anh em ruột thịt trong nhà. Mà đã như thế thì không bao giờ được lấy nhau. Ngay từ khi còn nhỏ, các cháu ở hai làng đã được dạy rằng đó là người anh, người em của mình nên cũng rất ý thức trong quan hệ. Tôi đã 90 tuổi nhưng chưa từng thấy cuộc hôn nhân nào giữa người hai làng cả”- cụ Kế cho biết.
Nguyễn Văn Khảm, 28 tuổi, người làng Nga Trại kể: “Con gái Đông Lâm xinh đẹp, giỏi giang có tiếng trong xã. Lúc mới đi học, em cũng từng thích một cô hoa khôi trong trường. Nhưng khi biết là người Đông Lâm, tự nhiên tình cảm có sự thay đổi. Em cảm thấy mình phải có trách nhiệm cư xử như một người em với chị mình”.
Vậy phải chăng có sự cấm đoán nào đó chăng? Hỏi các cụ mới biết, việc trai, gái hai làng không lấy nhau chưa hề được ghi trong hương ước nhưng cứ đời nọ truyền đời kia. Những phong tục truyền miệng ấy còn có sức mạnh ghê gớm hơn rất nhiều so với quy định bằng văn bản.
Ông Ngô Đình Dũng, Bí thư Đảng ủy xã Xuân Cẩm xác nhận: “Tôi chưa bao giờ thấy con trai, con gái hay làng Xuân Biều, Cẩm Xuyên lấy nhau cả. Xã không hề cấm việc kết hôn nhưng mặt khác chúng tôi tôn trọng những quy tắc truyền thống giữa hai làng”.
Dẫu trai gái hai làng không lấy nhau nhưng người dân hai làng luôn dành những tình cảm chân thành cho nhau. Nhiều trường hợp thanh niên trong làng này thuộc dạng nghịch ngợm, nổi tiếng ương bướng, thậm chí thường xuyên gây sự đánh nhau với cả người trong làng nhưng khi gặp người làng kết chạ thì lại luôn đối xử một cách hòa nhã.
Thi thoảng có nhóm thanh niên ở hai làng không biết đã gây sự với nhau, nhưng khi biết là người làng kết chạ thì lại đổi giận làm lành, bắt tay, xin lỗi nhau. Trường hợp quá căng, không tự giải quyết được thì cán bộ thôn, già làng phải sang làng kết chạ xin lỗi.
Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm khi xảy ra. Ông Dũng chia sẻ: “Kết chạ không chỉ giúp cho tình hìnhan ninh, trật tự giữa các thôn này luôn ổn định mà còn tạo nên một khối đoàn kết vững chắc. Đồng thời, tục lệ ấy khiến con người cảm thấy yêu thương, trân trọng nhau hơn. Đó là một nét văn hoá không dễ gì có thể giáo dục theo cách thông thường được”.
Theo Nguyễn Trường
Bức thư tuyệt mệnh đẫm nước mắt của người chồng trong vụ án oan 5 năm
Quá uất ức khi thấy vợ mình bị oan, bị tra khảo bức cung mà giúp được gì. Người chồng đã tự vẫn để xuống suối vàng mong được minh oan cho vợ.
Bà Đỗ Thị Hằng, nạn nhân trong vụ án oan 5 năm
Cơ quan công an điều tra Bắc Giang đã cho rằng bà Hằng cầm đầu đường dây buôn bán người trái phép mà nạn nhân trong vụ án này là Dương Thị Liễu ở Hiệp Hòa, Bắc Giang.
Năm 1998, tòa án Bắc Giang đã áp dụng điều 115 khoản 2 điểm a, b, điều 157 khoản 1, điều 25, điều 33, điều 38 điểm h, điều 41 bộ luật hình sự tuyên án phạt bà Hằng 5 năm 6 tháng tù giam. Trong đó, 5 năm tù về tội mua bán phụ nữ, 6 tháng về tội lừa đảo và chiếm đoạt tài sản của công dân. Thời hạn tù tính từ ngày 16/10/1997. Thu hồi bà Hằng 400 nghìn đồng để xung công, bị cáo chịu 50 nghìn đồng án phí HSST.
Sau mấy năm xa cách những tưởng gia đình chị Hằng được đoàn tụ thì ai ngờ rằng người vợ lại bị hàm oan khi cơ quan công an điều tra tỉnh Bắc Giang cho rằng chị Hằng là kẻ chủ mưu cầm đầu đường dây buôn phụ nữ trái phép. Bi kịch gia đình xảy ra từ đây khi Bố chết, mẹ vào tù, 5 đứa con thơ dại không còn chỗ dựa vào đâu.
Cuộc sống bần cùng khi người vợ bị rơi vào vòng lao lý để lại người chồng cùng 5 đứa con nhỏ đói khát. Bản thân người chồng lại mang trong mình nhiều bệnh tật, dù đã nhờ bạn bè làm ở bên tòa án giúp đỡ mà vẫn không được. Người chồng rơi vào bế tắc, cảm thấy bần cùng nên đã quyết định tự vẫn để xuống dưới suối vàng minh oan cho vợ.
Bức thư tuyệt mệnh của người chồng để lại
Toàn bộ nội dung bức thư của người chồng để lại
"Hằng em, cùng các con yêu quý
Lại đêm nay anh không ngủ được vì nhận được giấy báo xử của em do 1 cô bạn hết án đưa về cho anh.
Thế là còn 3 ngày nữa là xử vợ anh, anh rất buồn vì không làm gì cho em được. anh có đi nhờ cô Tin bạn anh ở bên tòa án giúp nhưng cũng không được, anh vô cùng bất lực. Anh rất buồn và thương vợ nhưng lực bất tòng tâm, em và các con hiểu cho anh nhé! Hằng ạ! Cô bạn đưa giấy xử kể cho anh nghe là chị Hằng ở trong đấy khổ lắm, bị cán bộ Cảnh điều tra đi cung đánh sưng cả mắt, suốt ngày chị khóc và hoảng loạn chửi là Nguyễn Quang Cảnh. Anh nghe kể lại vô cùng uất ức, không còn con đường nào khác, anh thử đi tìm Diêm Vương và Thủy Tề xem có giúp được không. Anh rất thương vợ con, vừa phải xa cách gần 2 năm trời, vừa mới được đoàn tụ thì vợ anh lại phải gánh nỗi hàm oan này. Đúng là đời quá khổ em ạ, tài sản duy nhất là 2 gian nhà ổ chuột và 5 đứa con dại đang đói khát. Anh thật quá bất lực vì những cơn đau vừa suất huyết dạ dày vừa lại viêm gan. Bệnh thì nặng chẳng có tiền mua thuốc. Hàng tháng phường phải cứu tế cho tiền ăn, sống thế này thật quá khổ. Anh chỉ là gánh nặng cho vợ con mà thôi, nay em phải đi tù khổ quá chẳng biết bao giờ mới về. Anh hoàn toàn bất lực chẳng biết trông vào đâu.
25 năm trời em sống với anh khổ quá, thôi anh viết vài dòng để lại cho mẹ con em, đừng trách anh Hằng nhé, các con hãy tha lỗi cho bố".
Theo Xahoi
Công nhận 13 cây di sản Hội Cây di sản Việt Nam vừa công nhận thêm 13 cây và cụm cây là "Cây di sản Việt Nam". Cây Bạch mai quý hiếm ở Bến Tre Đặc biệt trong danh sách này có cây Bạch mai ở đình Phú Tự, ấp Phú Tự (xã Phú Hưng, TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre) là một trong ba cây Bạch mai quý...