Top 12 thế giới về người dùng internet, nhưng chỉ 4% người Việt ‘làm giấy tờ’ online
Tỷ lệ người biết đến dịch vụ công trực tuyến và chủ động ‘làm giấy tờ’ qua mạng rất thấp, dù có tới 94% người dùng internet Việt Nam truy cập mạng hằng ngày.
Cư dân mạng dành gần 13 tiếng xem nội dung trên internet
Báo cáo Digital 2019 đã chỉ ra nhiều đặc điểm về hành vi sử dụng internet của người Việt Nam. Theo kết quả khảo sát của We Are Social và Hootsuite, tỷ lệ sử dụng internet ở Việt Nam là 66% (khoảng 64 triệu người), cao hơn trung bình khu vực Đông Nam Á (63%). Việt Nam vẫn là quốc gia có số lượng người dùng internet đứng thứ 12 thế giới và đứng thứ 6 ở khu vực châu Á.
Đáng chú ý, có tới 94% người dùng internet Việt Nam truy cập mạng hằng ngày. Mỗi ngày như vậy, họ tiêu tốn trung bình 6g42 để sử dụng internet, 2g32 cho mạng xã hội, 2g31 dành để xem truyền hình trực tuyến và video theo nhu cầu và 1g11 nữa cho nghe nhạc trực tuyến. Tổng thời gian cho những hoạt động trên là 12 tiếng 56 phút.
Thời gian trung bình hàng ngày dành cho việc tiêu thụ và tương tác với phương tiện truyền thông của người sử dụng internet ở Việt Nam
Những nội dung trực tuyến được ưa chuộng là video (99% người dùng internet), TV (55%), game (53%), livestreams của người chơi game (32%), các giải thể thao điện tử e-sports (29%). Google.com tiếp tục là website được truy cập nhiều nhất Việt Nam. Từ khóa tìm kiếm phổ biến trên công cụ này là “ phim”, “ XSMB”, “ XSMN”.
… nhưng rất ít người biết làm thủ tục hành chính qua mạng
Số người dùng internet ở Việt Nam ngày càng gia tăng cũng là điều được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) ghi nhận. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc có thêm nhiều người Việt Nam tương tác với chính quyền thông qua internet và biết “làm giấy tờ” trực tuyến.
Theo báo cáo Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam – PAPI 2018, chưa tới 4% người được hỏi cho biết họ có tiếp cận cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương. Tỷ lệ tìm hiểu thủ tục chứng thực, xác nhận qua cổng thông tin điện tử chỉ tăng từ 2,10% (năm 2016) lên 2,56% (năm 2017) và đạt 3,97% (năm 2018). Đối với tìm hiểu thủ tục làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tỷ lệ sử dụng cổng thông tin điện tử chỉ đạt 1,53%. Đối với thủ tục cấp phép xây dựng, chỉ 0,93% người dân trả lời rằng có tìm hiểu trên cổng thông tin điện tử của chính quyền.
Tỷ lệ người sử dụng cổng thông tin điện tử khi “làm giấy tờ” vẫn rất thấp, dù đã tăng nhẹ so với năm trước đó.
Những con số trên được nhóm nghiên cứu PAPI 2018 đánh giá là chưa tương xứng với tốc độ gia tăng số lượng người dùng internet. Bởi lẽ, có tới 53% số người được hỏi cho biết họ có internet tại nhà (tăng 15% so với năm 2017). 38% số người khảo sát nói rằng kênh thông tin thời sự chính của họ là qua internet (tăng 10% so với năm 2017).
Video đang HOT
Như vậy, số người sử dụng cổng thông tin điện tử và một cửa điện tử của chính quyền thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ người dùng internet tại Việt Nam, xét về mức tăng cũng có khoảng cách xa.
Cung cấp dịch vụ “làm giấy tờ” đến từng chiếc điện thoại là một giải pháp?
1,93-4,24 điểm (thang điểm 1-10) là khoảng dao động điểm chỉ số nội dung “Quản trị điện tử” của các địa phương – theo Báo cáo PAPI 2018. Điều đó cho thấy việc sử dụng cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương để tìm hiểu quy trình, thủ tục hành chính còn rất hạn chế. Dù rằng, các địa phương đã tập trung xây dựng cổng thông tin điện tử đến các cấp ít nhất là từ năm 2011, khi Chương trình tổng thể về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 được đưa vào triển khai.
Nội dung “sử dụng cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương” chỉ mới nhỉnh hơn số điểm tối thiểu.
Đà Nẵng đang là địa phương dẫn đầu cả nước về chỉ số Quản trị điện tử, với kết quả 4,24/10 điểm. Điểm nội dung thành phần “Sử dụng cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương” là 0,77/5 điểm; Điểm nội dung “Tiếp cận và sử dụng internet tại địa phương” là 3,47/5 điểm.
TP.HCM đứng thứ hai với 3,99/10 điểm. Trong đó, nội dung “Sử dụng cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương” đạt 0,62/5 điểm, nội dung “Tiếp cận và sử dụng internet tại địa phương” đạt 3,37/5 điểm.
Thống kê đến hết tháng 2.2019 của Ban chỉ đạo Cải cách hành chính TP.HCM cho thấy, 41% số hồ sơ được nộp trực tuyến (413.00/1.000.850 hồ sơ). Tuy vậy, khảo sát của Ban Dân chủ – Pháp luật, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM lại tiết lộ nhiều vấn đề ở con số này. Tỷ lệ nộp hồ sơ hộ tịch trực tuyến mức độ 3 tại một phường đạt 36%, 1/3 trong đó được thực hiện bởi người dân, số hồ sơ còn lại do người dân tới tận phường nhờ cán bộ nhập giúp. Đại diện Mặt trận Tổ quốc cho rằng, không hẳn người dân thành phố thờ ơ mà do việc thao tác trên máy tính quá khó với nhiều người.
Giao diện của TP.HCM được đại diện MTTQVN TP.HCM đánh giá là chưa dễ sử dụng với nhiều người
Một cách làm khác đang được triển khai là cung cấp các dịch vụ hành chính công qua ứng dụng điện thoại. Người dân có thể nhập thông tin hồ sơ bằng điện thoại thông minh và cũng dùng chính chiếc điện thoại này để chụp hình các tài liệu cần thiết. Ưu điểm của cách này so với thực hiện qua website là không yêu cầu người dân phải có máy scan (máy quét) để chuyển tài liệu giấy trở thành dạng kỹ thuật số, giao diện ứng dụng được giản lược để dễ thao tác.
Hầu hết các quận, huyện ở TP.HCM đều đã tự xây dựng một ứng dụng điện thoại để cung cấp dịch vụ đến nhân dân. Người dân cũng có thể gửi ý kiến phản ánh bằng cách chụp ảnh tình hình an ninh trật tự tại nơi sinh sống và nhắn tin thông qua ứng dụng. Giải pháp này mang đến thuận lợi cho cư dân trong khu vực, nhưng đối với những người cư trú không thường xuyên thì chưa thực sự phù hợp. Họ sẽ phải tìm và cài đặt nhiều ứng dụng, rồi sau đó cần chọn đúng ứng dụng phù hợp để gửi phản ánh đến đúng chính quyền địa phương.
Từ trái sang phải: TP.HCM và tình trạng “mỗi quận, huyện một ứng dụng”; giao diện ứng dụng tư vấn thủ tục Quận 12; Tin nhắn thông báo kỳ họp thường kỳ tháng 8.2019 được Cổng thông tin Chính phủ gửi qua Zalo.
Đối với Quận 12, chính quyền chọn ứng dụng IURA làm nền tảng tư vấn thủ tục hành chính công với nhân dân. Cũng không tự làm ứng dụng như Quận 12, chính quyền Quận 3 lựa chọn Zalo là kênh tương tác với nhân dân, nhằm tận dụng được số lượng người dùng lớn và thường xuyên của ứng dụng.
Đà Nẵng, Quảng Ninh, Bình Phước là các địa phương có điểm số Quản trị điện tử dẫn đầu, cũng đang triển khai dịch vụ hành chính công tương tự qua Zalo. Lấy ví dụ về Cổng thông tin dịch vụ “Tổng đài 1022 Đà Nẵng”, tài khoản này trên Zalo cung cấp từ dịch vụ tra cứu thông tin xe buýt, cơ sở y tế,… đến “làm giấy tờ”, hoàn thiện hồ sơ.
Cũng cần chú ý rằng, các sở ngành tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước đều đã có website một cửa điện tử, phục vụ người dân làm giấy tờ trực tuyến. Ứng dụng điện thoại chỉ là một kênh tiếp cận để người dân tiện sử dụng. Tính năng nộp hồ sơ thủ tục hành chính trên ứng dụng điện thoại sẽ kết nối với website một cửa điện tử. Việc ghi danh, địa chỉ, đính kèm hình ảnh giấy tờ,… đều thực hiện trên website Cổng hành hính công. Ứng dụng điện thoại là một tùy chọn về cách thức truy cập website, không phải là cách thức duy nhất để thực hiện dịch vụ công trực tuyến.
Tìm và hỏi cán bộ “quen” vẫn là kênh thông tin chính sách chủ yếu.
Theo báo cáo của Ủy ban Tư pháp Quốc hội, ngân sách nhà nước chi trên 6.000 tỉ đồng mỗi năm cho phát triển chính phủ điện tử (giai đoạn 2015-2017). Sự cần thiết của chính phủ điện tử và quản trị điện tử cũng được coi là một trong những ưu tiên của quốc gia trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và 10 năm sau khi Chính phủ quyết tâm đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước theo tinh thần của Nghị định 102/2009.
Nhưng chắc chắn, số tiền này sẽ không có hiệu quả trọn vẹn nếu tỷ lệ người dân tiếp cận website của chính quyền chỉ đạt 4%.
Theo Thanh Niên
Đề nghị xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm
Bộ LĐ-TB&XH đang đề nghị xây dựng Nghị định quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm để góp phần thực hiện có hiệu quả chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Xây dựng sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm để góp phần thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội
Thiếu đồng bộ hạn chế việc chia sẻ dữ liệu
Tại báo cáo đánh giá tác động của chính sách, Bộ LĐ-TB&XH cho biết, Bảo hiểm xã hội Việt Nam là một trong những đơn vị đi đầu trong công tác ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm, chia sẻ thông tin, giám sát việc thanh toán, chi trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động nghiệp vụ của Ngành đã tạo sự minh bạch, rõ ràng trong quản lý điều hành và đặc biệt giúp nâng cao năng lực hiệu quả trong công tác phục vụ người dân và đơn vị sử dụng lao động.
Hiện tại, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã xây dựng được một số các cơ sở dữ liệu quan trọng phục vụ quản lý nghiệp vụ chuyên ngành của các cơ quan bảo hiểm từ Trung ương tới địa phương, được cài đặt tập trung tại Trung tâm dữ liệu của Ngành, cơ bản đáp ứng yêu cầu của hệ thống và người sử dụng.
Tuy nhiên, ngành Bảo hiểm xã hội chưa có cơ sở dữ liệu dùng chung cho tất cả các ứng dụng trong toàn Ngành, các phần mềm sử dụng một hoặc nhiều cơ sở dữ liệu để phục vụ nghiệp vụ của người dùng gây ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Nếu giữ nguyên hiện trạng hiện nay, thời gian tới, các nghiệp vụ tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm càng ngày càng nhiều. Khi không có các quy định về việc xây dựng, thu thập dữ liệu sẽ có sự chồng lấn và cát cứ.
Nguồn lực xây dựng Chính phủ điện tử sẽ bị ảnh hưởng lớn. Với đặc thù dữ liệu của ngành bảo hiểm xã hội rất lớn nên thu thập dữ liệu theo quy trình, mục đích khác nhau sẽ dẫn tới những sai lệch nhất định, dữ liệu sẽ phụ thuộc lớn vào đặc thù của quy trình nghiệp vụ sẽ không thể được tích hợp sử dụng được.
Điều này sẽ dẫn tới các "ốc đảo" dữ liệu và việc chia sẻ dữ liệu sẽ rất hạn chế. Việc triển khai các biện pháp để xử lý, tái cấu trúc sau này sẽ khó khăn và tốn kém chi phí hơn rất nhiều.
Số hóa dữ liệu góp phần cải cách thủ tục hành chính
Bộ LĐ-TB&XH cho biết, Nghị quyết số 17/NQ-CP của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025 với mục tiêu hoàn thiện nền tảng Chính phủ điện tử nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển Chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu và dữ liệu mở hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an toàn thông tin và an ninh mạng.
Như vậy, để góp phần thực hiện có hiệu quả chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; cải cách hành chính tiến đến Chính phủ số, Chính phủ điện tử thì việc việc xây dựng Nghị định quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm là thực sự cần thiết.
Cũng theo cơ quan soạn thảo, nội dung của chính sách gồm: Quy định việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; quy định việc khai thác, sử dụng, chia sẻ và kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; quy định việc quản lý nhà nước cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm.
Về giải pháp thực hiện, đối với việc xây dựng cơ sở dữ liệu, dự thảo Nghị định quy định các nội dung liên quan đến thu thập các thông tin trong cơ sở dữ liệu; việc cập nhật thông tin cũng như duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm.
Đối với việc khai thác, sử dụng, chia sẻ và kết nối, dự thảo Nghị định quy định cụ thể về các đối tượng, phạm vi được khai thác và sử dụng; quy định việc kết nối chia sẻ phải đảm bảo theo quy định của pháp luật về kết nối và chia sẻ dữ liệu số.
Hiện nay, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã xây dựng được một số các cơ sở dữ liệu quan trọng phục vụ quản lý nghiệp vụ chuyên ngành. Đây là những cơ sở dữ liệu có tính chất nền tảng cho việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm.
Theo An Ninh Thủ Đô
Người dân quận 10 - TP HCM có bức xúc, cứ lên website phường phản ánh Trang thông tin điện tử 15 phường của quận 10, TP HCM được xây dựng theo nguyên tắc lấy người sử dụng làm trung tâm, bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện cho người sử dụng máy tính hay các thiết bị di động khác. UBND quận 10 - TP HCM vừa chính thức ra mắt trang thông tin điện tử và...