Tống Khánh Linh được bảo vệ thế nào trong CM văn hóa?
Sau khi đọc thư, biết rõ sự nguy hiểm đang rình rập Tống Khánh Linh, Thủ tướng Chu Ân Lai ngay lập tức đưa ra 2 quyết định.
Sau khi đọc thư, biết rõ sự nguy hiểm đang rình rập Tống Khánh Linh, Thủ tướng Chu Ân Lai ngay lập tức đưa ra 2 quyết định.
Một là tăng cường bảo vệ ngôi nhà mà Tống Khánh Linh đang ở. Hai là để tránh hậu họa, cho gọi “S đồng chí” tới cơ quan bảo vệ của chính phủ để nói cho ông ta biết những việc làm sai trái cần chấm dứt.
Sau ngày cách mạng Trung Quốc (TQ) thành công, năm 1949, Tống Khánh Linh đã giữ nhiều trọng trách trong Chính phủ nước CHND Trung Hoa: Phó chủ tịch nước, Phó chủ tịch Ủy ban Chính trị hiệp thương toàn quốc (tức Mặt trận Tổ quốc). Bà là một nhân sĩ có uy tín rất lớn đối với nhân dân TQ.
Tuy nhiên, từ cuối năm 1965, khi Cách mạng văn hóa (CMVH) nổ ra thì Tống Khánh Linh cũng như nhiều vị nhân sĩ, trí thức khác đều không thoát khỏi sự tấn công của “bè lũ bốn tên”: Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên, những kẻ thao túng cuộc “cách mạng” này.
Tống Khánh Linh và Tôn Trung Sơn.
Riêng với Tống Khánh Linh thì Giang Thanh tỏ ra “ưu ái” đặc biệt. Sở dĩ như vậy vì theo công luận thì Giang luôn ghen tị với Tống. Giang cho rằng mình đường đường là một “đệ nhất phu nhân”, nhưng trong con mắt của người TQ “Giang không là gì”, lại càng không thể so sánh với Tống Khánh Linh trên tất cả mọi phương diện. Vì thế, khi có được quyền hành trong tay, lập tức Giang tìm cách “xóa bỏ hình ảnh” Tống Khánh Linh.
Vẫn với khẩu hiệu “đánh đổ tàn dư của giai cấp tư sản”, “cách mạng tức là “cách cái mạng” của bè lũ tư sản”, bắt đầu từ mùa hạ năm 1966 theo sự xúi giục của Giang Thanh, Hồng vệ binh và “phái tạo phản” đã kéo tới bao vây nơi ở của Tống Khánh Linh và gia đình tại Bắc Kinh.
Âm mưu của chúng là sẽ tìm cách mang Tống Khánh Linh ra “đấu tố”, (một chiêu thức chúng thường sử dụng đối với các cán bộ lão thành và các nhân sĩ yêu nước).
Biết được tin này, Thủ tướng Chu Ân Lai rất phẫn nộ, nhưng cũng chỉ có thể phái một trung đội cảnh vệ chia làm 3 ca, ngày đêm liên tục tuần tiễu quanh nhà của Tống Khánh Linh để giữ gìn an ninh, ngăn chặn đám Hồng vệ binh và “phái tạo phản” làm càn.
Về phần mình, Tống Khánh Linh cũng lệnh cho người phụ trách việc bảo vệ khu nhà là Tùy Học Phương đóng chặt cửa ra vào chính, chỉ để chừa lại một cửa nhỏ thông sang Bộ Y tế để tiện việc quan sát.
Nhưng tất cả những cố gắng trên đều không thể giữ được sự yên bình cho khu nhà của Tống Khánh Linh: đội cảnh vệ tuần tiễu bên ngoài và những nhân viên bảo vệ bên trong chỉ có thể ngăn cản sự xâm nhập của đám Hồng vệ binh và lũ “tạo phản” chứ không thể ngăn được tiếng thanh la não bạt, tiếng hò hét suốt ngày đêm của chúng.
Không những thế, ngày này qua ngày khác, rất nhiều “tiểu tướng Hồng vệ binh” còn liên tục gửi cho Tống Khánh Linh các bức thư, mà nội dung hầu như đều giống nhau: “Mạnh mẽ yêu cầu bà Tống không được treo những tranh ảnh, lưu giữ những đồ gốm sứ, mặc những bộ quần áo v.v… của giai cấp tư sản!”.
Cứ mỗi lần phải xem những bức thư mà chữ viết còn quá non nớt, Tống Khánh Linh lại buồn bã lắc đầu. Bà thở dài và nói với những người xung quanh: “Trời ơi! Các cháu học sinh nó có biết gì đâu. Bọn họ không nên làm hại lũ trẻ như vậy”. “Bọn họ” ở đây đã bao hàm ý nghĩa phê phán những kẻ lợi dụng tình hình, kích động thanh niên để “thừa gió bẻ măng” với dã tâm đen tối.
Video đang HOT
Sau một thời gian “bị khủng bố”, bỗng một hôm Khánh Linh và những người trong gia đình thấy xung quanh im ắng khác thường. Mọi người chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì chợt ngoài cửa chính vang lên tiếng còi ôtô. Tống Khánh Linh lệnh cho Tùy Học Phương ra mở cửa. Người xuống xe và tiến vào nhà lại chính là Giang Thanh!
Với bộ đồ quân phục, tay cầm sách đỏ “Mao Chủ tịch ngữ lục”, Giang cùng đám tùy tùng “hùng dũng” vào phòng khách. Chào hỏi được vài câu, Giang Thanh bắt đầu thao thao bất tuyệt giảng giải về “ý nghĩa vĩ đại của CMVH, về sự cần thiết phải phản tỉnh…”. Tống Khánh Linh ngồi im lặng và nhìn vị “cộng hòa quốc đệ nhất phu nhân”. Trên khuôn mặt Khánh Linh phảng phất một nụ cười bao dung.
Thấy Giang cứ thao thao bất tuyệt mãi không thôi, Khánh Linh mỉm cười và cắt ngang: “Nên khống chế bớt những hành động vô lối của đám Hồng vệ binh cũng như của đám “tạo phản”, không nên dùng vũ lực, lại càng không nên hại người một cách tràn lan”. Giang Thanh mất hứng, mặt xị ra vì ngượng và tức, đứng dậy bỏ về.
Tống Khánh Linh đúng là “chưa nhìn thấy hết thực chất con người Giang Thanh” và sau đó bà đã “lãnh đủ” sự trả thù của Giang.
Ấy là vào buổi tối ngày 29/8/1966, Tống Khánh Linh đã nhận được tin dữ từ Thượng Hải với khẩu hiệu “xóa bỏ mộ phần của giai cấp tư sản cũng như của chế độ cũ, Hồng vệ binh tại Thượng Hải đang thực hiện việc đào bới và đập phá khu mộ “vạn quốc công” ở đây.
Mà bố mẹ của Tống Khánh Linh lại là bố mẹ vợ của Tưởng Giới Thạch (Tống Mỹ Linh, em ruột Tống Khánh Linh là vợ Tưởng Giới Thạch). Vì thế mộ phần của họ Tống cũng không thoát khỏi sự tàn phá: Hồng vệ binh đã đào bật quan tài, vứt cả xương cốt ra ngoài”.
Với tâm trạng vô cùng phẫn nộ, ngay trong đêm Tống Khánh Linh đã viết thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai, báo cáo lại sự việc. Vào sáng sớm 30/9, Tùy Học Phương nhận nhiệm vụ mang thư đi. Phải rất mưu mẹo và tốn nhiều công sức Tùy mới vượt được vòng vây của Hồng vệ binh và tới Tây Hoa sảnh trong Trung Nam Hải để đưa bức thư tận tay Thủ tướng Chu Ân Lai. Sau khi nhận được thư, Thủ tướng Chu Ân Lai đã lập tức gọi điện khẩn cấp tới chính quyền ở Thượng Hải, hạ lệnh phải “ngay lập tức khôi phục lại nguyên trạng mộ phần của tổ tiên và gia đình Phó ủy viên trưởng Tống Khánh Linh, đồng thời phải có sự bảo vệ chu đáo, không được tái diễn sự việc”.
Mặt khác, Thủ tướng cũng đích thân lập một danh sách “những người không được phép đấu tố”, trong đó có Quách Mạt Nhược, Hoa La Canh… Tên của Tống Khánh Linh đứng đầu tiên trong danh sách ấy.
Lúc này, chính quyền thành phố Thượng Hải nằm trong tay “phái tạo phản”, đứng đầu là Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, đều là “những người bạn chiến đấu thân thiết của Giang Thanh”.
Mặc dù không muốn, nhưng bọn chúng vẫn sợ uy của Thủ tướng nên không thể không chấp hành lệnh, trùng tu lại khu mộ phần của họ Tống. Tuy nhiên, những tấm bia ở các mộ làm sẵn mang tên anh em, họ hàng nhà họ Tống thì đều bị chúng đập tan tành.
Nhưng sự việc không dừng ở đó. Vào ngày mồng 2 tết Nguyên đán năm 1967, tai họa giáng xuống đầu Tùy Học Phương, người vệ sĩ gần gũi và trung thành của Tống Khánh Linh. Sự việc xảy ra vào hôm Tùy từ Bắc Kinh về Thượng Hải với mục đích kiểm tra tình hình mộ phần họ Tống. Một “lãnh tụ” Hồng vệ binh thuộc cơ quan cảnh vệ Thượng Hải đã mời Tùy đi uống rượu.
Kết quả là sau đó Tùy đã bị “trúng gió” dẫn tới “bán thân bất toại”, hoàn toàn sống một cuộc đời thực vật ở tuổi 38. Người ta giải thích với Tống Khánh Linh rằng, “Tùy Học Phương bị xuất huyết não vì lượng cồn trong máu vượt quá mức cho phép”. Với lý do “chữa bệnh lâu dài”, người ta không cho Tùy được quay lại Bắc Kinh. Từ đó, Tống Khánh Linh không bao giờ còn được gặp lại Tùy Học Phương nữa!
Không còn nhân viên bảo vệ, buộc Tống Khánh Linh phải báo cáo sự việc với Cục Bảo vệ thuộc Ủy ban Thường vụ Hội nghị chính trị hiệp thương toàn quốc. Mấy ngày sau, người ta đã phái tới nhà Tống Khánh Linh một vị “bảo vệ kiêm thư ký” 40 tuổi, có mật danh là “S đồng chí”. Sau này có nhiều nguồn tin cho rằng “S đồng chí” là mật vụ của Giang Thanh.
Lúc này, cuộc “đại CMVH” ngày một dữ dội. Hầu như suốt ngày đêm trước cửa nhà Tống Khánh Linh đều ầm ĩ những tiếng hô “đả đảo”, cộng với tiếng thanh la, não bạt của các phái tạo phản và Hồng vệ binh. Sở dĩ chúng chưa dám xông vào bắt Khánh Linh đi “đấu tố” vì đã có lệnh từ Thủ tướng Chu Ân Lai.
Theo_Kiến Thức
Bốn người phụ nữ ảnh hưởng đặc biệt đến Mao Trạch Đông
Bốn người phụ nữ này đã có những ảnh hưởng rất quan trọng đến vị lãnh đạo nổi tiếng Trung Quốc Mao Trạch Đông.
Mẹ của Mao Trạch Đông, mọi người thường gọi là Văn Thất Muội. Bà là một người đàn bà chuyên cần lao động, lương thiện hiền thục, phẩm đức cao thượng.
Năm 1867, bà sinh ra trong một gia đình bần nông xã Đường Gia, huyện Tương Hương, cách xã Thiều Sơn (làng quê của Mao Trạch Đông) hơn hai chục dặm.
Năm 18 tuổi, bà Văn Thất Muội lấy chồng là ông Mao Thuận Sinh, một chàng trai nông dân nghèo khổ của xã Thiều Sơn và trở thành một người vợ hiền, dâu thảo.
Năm 1893, bà sinh Mao Trạch Đông, sau đó lại sinh ra Mao Trạch Dân, Mao Trạch Đàm và còn nhận nuôi dưỡng một người con gái nuôi tên là Mao Trạch Kiện.
Đối với mẹ, Mao Trạch Đông chan chứa tình cảm. Sau khi mẹ từ trần không lâu, Mao Trạch Đông đã viết thư cho các bạn học, trong thư có viết: "Trên đời có 3 loại người: Làm thiệt người lợi mình; làm lợi mình không thiệt người; có thể thiệt mình, làm lợi người. Mẹ mình thuộc về loại người thứ ba!".
Dương Khai Tuệ: Người yêu nhất đời của Mao Trạch Đông
Cuộc hôn nhân kết tóc xe tơ giữa Dương Khai Tuệ với Mao Trạch Đông là kết quả của tự do chọn lựa và tự do yêu đương của thanh niên trí thức, với sự ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng mới của phong trào Ngũ tứ (4/5/1917). Dương Khai Tuệ, tên hiệu là Hà, tên tự là Vân Cẩm, sinh ngày 6/11/1901, tại xã Bản Thương, huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.
Mao Trạch Đông và Dương Khai Tuệ.
Trung tuần tháng 10/1930, Dương Khai Tuệ bị bọn phản động Quốc dân đảng bắt giam trong nhà tù. Khi điều tra xét hỏi, viên sĩ quan quân đội Quốc dân đảng gợi ý: Nếu như Dương Khai Tuệ chỉ tuyên bố thoát ly quan hệ với Mao Trạch Đông, thì lập tức sẽ được trả lại tự do.
Nhưng, Dương Khai Tuệ nghiễm nhiên trả lời:
"Chết cũng không tiếc, chỉ mong cuộc cách mạng của Nhuận Chi (tên hiệu của Mao Trạch Đông) sớm thành công!".
Dương Khai Tuệ đã kiên trung bất khuất anh dũng hy sinh trước mũi súng của tập đoàn phản động Quốc dân đảng, một lòng nghĩ đến Mao Trạch Đông và sự nghiệp cách mạng.
Hạ Tử Trân: Bạn chiến đấu cách mạng, cùng chung hoạn nạn với Mao Trạch Đông
Hạ Tử Trân là chiến hữu của Mao Trạch Đông trong cuộc đấu tranh ở núi Tỉnh Cương và trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Khu Xô-viết Giang Tây, cũng là người bạn đời chung hoạn nạn trong thời kỳ Mao Trạch Đông nhiều lần bị bài xích đả kích.
Mao Trạch Đông và Hạ Tử Trân.
Hạ Tử Trân giỏi văn giỏi võ, vì cách mạng sẵn sàng hy sinh tính mạng bản thân mình. Có một lần, Mao Trạch Đông, Chu Đức và một số người đang khai hội, Hạ Tử Trân cũng có mặt. Lúc ấy, kẻ địch xông vào, Hạ Tử Trân anh dũng mưu trí, lập tức cưỡi một con ngựa không có yên, trên tay cầm hai khẩu súng, bắn về hai hướng đông tây, mỗi bên một phát. Mọi người nói cô có thể bắn súng hai tay chính là xuất phát từ cuộc chiến đấu bất ngờ ấy. Cô dẫn dụ thu hút quân địch, bọn địch theo tiếng súng mà truy đuổi cô. Di chuyển một vòng, đánh lạc hướng quân địch, rồi cô rút lui an toàn, bảo vệ được đồng chí đồng đội thoát hiểm.
Hạ Tử Trân giỏi văn giỏi võ, sẵn sàng hy sinh thân mình vì cách mạng. Trong lửa đạn chiến tranh, Mao Trạch Đông và Hạ Tử Trân cùng vào sống ra chết, sống chung 10 năm gian nan nhất của cách mạng Trung Quốc.
Giang Thanh: Gánh nặng chính trị của vĩ nhân một thời
Mao Trạch Đông và Giang Thanh có một cuộc hôn nhân gần bốn mươi năm, thời gian dài nhất, quan hệ cũng phức tạp nhất. Trong những năm tháng chiến tranh, quan hệ giữa hai người khá yên bình, hài hòa, song cũng có sóng gió.
Mao Trạch Đông và Giang Thanh.
Sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông có một sự quan tâm và kỳ vọng đối với Giang Thanh.
Từ sau khi Giang Thanh leo lên vũ đài chính trị, Mao Trạch Đông đối xử với Giang Thanh rất thất thường, bỗng dưng coi trọng, bỗng dưng lãnh đạm, bỗng dưng quan tâm, bỗng dưng phê bình.
Đến cuối đời, về cơ bản hai người có danh phận mà không còn thực tế.
Giang Thanh có thể hấp dẫn ánh mắt của Mao Trạch Đông, một mặt là do cô ta chủ động theo đuổi, mặt khác cũng bởi vì tại Diên An khi ấy, Giang Thanh đích xác khá xuất chúng. Mái tóc đen huyền, mắt to có thần, hát Kinh kịch rất hay, rất được hoan nghênh trong hoàn cảnh đời sống văn hóa khi ấy rất nghèo nàn.
Theo Kiến Thức
Gặp vợ chồng giảng viên cưu mang hàng ngàn sĩ tử 8 năm qua, vợ chồng cô Huyền (Trường ĐH Cần Thơ) cùng các tình nguyện viên thực hiện "chương trình tiếp sức mùa thi" ngay tại gia. Tính đến nay vợ chồng cô đã lo nơi ăn, chốn ở cho hàng ngàn sĩ tử nghèo lên kinh ứng thí trong các kỳ tuyển sinh ĐH-CĐ. Với nghĩa cử hào hiệp, trong 8 năm...