Tinh nghệ trị được những loại ung thư nào?
Một trong những trở ngại lớn của việc phát triển Curcumin (tinh nghệ) như một phương thuốc đ ung thư là hoạt tính sinh học thấp. Tuy nhiên các nghiên cứu lâm sàng khẳng định hoạt tính sinh học của Curcumin có thể đạt được trên đường tiêu hoá sau khi sử dụng qua đường uống.
Ung thư khoang miệng và tuyến dưới hàm
Mặc dù các nghiên cứu về Curcumin trên các bệnh ung thư khoang miệng còn ít nhưng Curcumin đã được khẳng định có nhu hứa hẹn trong việc phòng ngừa các bệnh ung thư khoang miệng. Trong mô hình gây ung thư khoang miệng ở chuột bằng 7,12 – dimethylbenz[a]anthracene cho thấy Curcumin khi sử dụng riêng lu cao hoặc kết hợp với piperine làm giảm một cách đáng kể ung thư biểu mô khoang miệng bởi tm năng chống enzyme lipidperoxydase và hoạt tính chống oxy hoá cùng với hiệu quả của nó trên các chất gây ung thư.
Nghiên cứu trên các bệnh nhân bạch sản khoang miệng là những tổn thương tn ung thư cho thấy việc sử dụng Curcumin kết hợp với các vitamin E và C có thể có hoạt tính chống ung thư bằng cách tăng hoạt tính chống oxy hoá tại chỗ, do đó phòng ngừa quá trình lipidperoxydase và sự hư hại DNA. Các nghiên cưú cho thấy Curcumin có thể ức chế như một tác nhân dự phòng ung thư khoang miệng qua khả năng ức chế hoạt hoá chất gây ung thư bằng việc tạo thuận lợi cho việc bộc lộ và tăng cường chức năng Cytocrome P450 hoặc CYP1B1.
Ung thư thực quản có 2 loại là ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô vảy. Ngay cả với sự tiến bộ củanhững phương pháp đ mới gần đây, khả năng sống sót của những bệnh nhân ung thư thực quản vẫn thấp. Trong khi ít có hy vọng đổi mới phương pháp đ ung thư thực quản thì có một vài trung tâm nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm Curcumin.
Nghiên cứu cho thấy trên các bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến Curcumin ức chế hoạt động của NF-kB và thúc đẩy các tế bào ung thư đi vào chu trình chết tự nhiên. Trong một nghiên cứu khác cho thấy Curcumin thúc đẩy các tế bào ung thư đi vào chu trình chết tự nhiên ở cả 2 loại là ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô vảy. Trong ung thư biểu mô vảy Curcumin làm giảm hoạt động của Prostaglandin E2, phân tử liên quan với sự phát triển ung thư trong ung thư biểu mô vảy thực quản.
Video đang HOT
Trong bệnh ung thư dạ dày, nhiễm khuẩn Helicobacter pyloricủa các tế bào biểu mô dạ dày là một trong những cơ chế chính phát sinh ung thư dạ dày. Một trong những cơ chế được đưa ra về việc phát sinh ung thư dạ dày do Helicobacter pylori là sự bộc lộ bất thường của enzym cytidin dexaminase gây hoạt hoá AID và quá trình hoạt hoá NF-kB. Vì vậy Curcumin ức chế NF-kB có thể được coi là một tác nhân dự phòng hoá chất mạnh chống lại việc sinh ung thư do Helicobacter pylori. Tác dụng dự phòng ung thư dạ dày của Curcumin đã được thực hiện trên nghiên cứu lâm sàng ở pha I.
Đa polyp utuyến gia đình
2/3 polyp đại tràng là polyp tuyến. Theo một định luật chung, polyp tuyến càng lớn thì khả năng ung thư hóa càng cao. Do đó các polyp lớn cần phải được sinh thiết hoặc cắt bỏ hoàn toàn và gửi đi xét nghiệm giải phẫu bệnh học. Ung thư đại trực tràng là nguyên nhân gây tử vong nhu thứ 2, chiếm 14% các trường hợp tử vong do ung thư. Ung thư đại trực tràng có thể phòng ngừa được nếu phát hiện sớm các polyp tuyến tn ung thư.
Nghiên cứu được thực hiện bởi Cruz – Correa và cộng sự trên các bệnh nhân đa polyp u tuyến gia đình cho thấy Curcumin có tm năng lớn trong việc ức chế bệnh đa polyp u tuyến gia đình. Các bệnh nhân tình nguyện ở giai đoạn phẫu thuật uống Curcumintrong 6 tháng. Số lượng và kích thước polyp được đánh giá sau đ cho thấy số lượng khối u giảm 60,4% và kích thước khối u giảm 50,9% so với đối chứng, hiệu quả rộng và không gây tác dụng phụ nào 6 tháng đ.
Nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân viêm ruột mạn tính.
Bệnh viêm ruột
Nghiên cứu được thực hiện trên các bệnh nhân bởi Holt và cộng sự cho thấy Curcumin ức chế viêm loét đại tràng và hội chứng kích thích ruột. Kết quả nghiên cứu trên các bệnh nhân tình nguyện cho thấy giảm tái phát, giảm triệu chứng khó chịu, cải thiện triệu chứng. Nghiên cứu được tiến hành trên 207 bệnh nhân tình nguyện uống 2 viên tinh nghệ/ngày trong 8 tuần cho thấy cải thiện triệu chứng rõ rệt.
Ung thư tuyến tuỵ tiến triển
Kết quả nghiên cứu lâm sàng trên các bênh nhân ung thư tuyến tuỵ tiến triển cho thấy việc sử dụng Curcumin không gây tác dụng không mong muốn nào, kết quả đáng mừng một bệnh nhân có kích thước khối u giảm 73%, các bệnh nhân khác cho đáp ứng tốt có thể đánh giá được.
Bệnh u máu nội mô gan ở Việt Nam
Ở Việt Nam chúng tôi đã sử dụng Curcumin đ có hiệu quả rất tốt cho một bệnh nhân u máu nội mô gan ở một trẻ nhỏ 5 tháng tuổi. Bệnh nhân có nhu u máu, gan kích thước lớn (8 khối u) chiếm trên 60% thể tích gan. Lúc đầu chúng tôi cũng đã liên hệ với nhu trung tâm nhi khoa nhưng đều có một gợi ý là phẫu ghép gan. Trong lúc tưởng chừng như không còn hy vọng, thử đ bằng Curcumin cho thấy các triệu chứng như rối loạn tiêu hoá, vàng da, chán ăn và gan to đã giảm nhẹ, trẻ phát triển tốt về thể lực. Sau 1 năm kiểm tra lại bằng siêm cho thấy tất cả các khối u của gan đã mất chỉ còn lại một vài vết sẹo nhỏ.
Đây là trường hợp u máu nội mô gan ở trẻ còn ẵm ngửa lần đầu tiên và duy nhất được đ hiệu quả bằng Curcumin được công bố trên y văn thế giới (http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/20582974). Kết quả chứng tỏ Curcumin có tác dụng ức chế tăng sinh tế bào nội mô.
Một trong những trở ngại sử dụng Curcumin trong đ các bệnh ung thư là hiệu quả sinh học thấp do việc hấp thu ở ruột thấp, thời gian bán hủy ngắn nên khó đạt được nồng độ đ Curcumin trong máu. Các nghiên cứu cũng chỉ rõ dạ dày, gan và ruột là những cơ quan có thể đạt được nồng độ Curcumin cao hơn, đặc biệt gan là cơ quan chuyển hoá Curcumin nên hàm lượng ở gan cũng cao hơn các cơ quan khác. Hiện nay cháu bé đã 8 tuổi khoẻ mạnh, thông minh, học tập tốt..
Một số nghiên cứu cho thấy rằng, để có tác dụng curcumin phải được sử dụng với lu cao tới 4g – 8g/1ngày.
tương đương với việc dùng lu từ 4g -8g curcumin đơn chất / 1 ngày.
Được biết tập đoàn Sabinsa là nhà cung cấp nguyên liệu cho các trung tâm nghiên cứu ung thư danh tiếng trên thế giới như viện nghiên cứu Adersonbang Texas – Mỹ, Sami Lab… để tiến hành nghiên cứu lâm sàng của curcumin trong việc phòng ngừa và hỗ trợ đ ung thư.
Theo Dân Trí
70% bệnh nhân ung thư đến viện ở giai đoạn cuối
Bệnh ung thư có thể phát hiện sớm và được chữa khỏi. Tuy nhiên, điều đáng buồn là hiện nay có tới 3/4 số bệnh nhân ung thư đến bệnh viện khi đã mắc bệnh ở giai đoạn cuối. Vì thế, họ không thể kéo dài sự sống quá 12 tháng.
Đây là thông tin được GS.TS Nguyễn Bá Đức (Phó chủ tịch Hội ung thư Việt Nam, nguyên giám đốc Bệnh viện K, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu phòng chống ung thư Quốc gia) cho biết tại hội thảo "Liệu pháp trúng đích phân tử trong điều trị ung thư dạ dày" do Viện Nghiên cứu phòng chống ung thư Quốc gia phối hợp tổ chức sáng 19/8.
Ông Đức cho biết: "Có khoảng 3/4 bệnh nhân ung thư đến viện điều trị khi bệnh đã ở vào giai đoạn cuối. Điều này khiến kết quả điều trị không cao". Trong khi đó, hơn 50% bệnh nhân ung thư ở Hàn Quốc phát hiện mắc bệnh ở ngay giai đoạn đầu.
Nguyên nhân của tình trạng này được xác định là do Việt Nam chưa có các trung tâm, chương trình sàng lọc ung thư và các biện pháp chẩn đoán, điều trị còn bị hạn chế (do không phải cơ sở y tế nào cũng làm được).
Điều này khiến quãng thời gian kéo dài sự sống bị thu hẹp đáng kể (đó là chưa kể đến những tốn kém rất lớn về mặt kinh tế).
Tại bệnh viện K, chỉ có khoảng 15% bệnh nhân ung thư sống được thêm 5 năm kể từ khi được điều trị bằng tất cả các biện pháp tốt nhất. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Nhật Bản là trên 50%. Quãng thời gian kéo dài sự sống trung bình của một bệnh nhân ung thư ở Việt Nam thường không quá 12 tháng (kể từ thời điểm được phát hiện).
Bệnh nhân ung thư tại Việt Nam đang gia tăng mạnh mẽ. Điều đáng buồn là họ thường phát hiện bệnh muộn và đến viện điều trị khi đã vào giai đoạn cuối, khiến kết quả điều trị không cao (Ảnh chụp tại BV K. Ảnh: C.Q)
Hiện nay, phương pháp điều trị trúng đích (điều trị trúng tế bào ung thư, tránh tế bào lành mạnh) được ưu tiên nhưng do kinh phí lớn, kỹ thuật đòi hỏi ở mức cao nên khả năng tiếp cận của người bệnh rất hạn chế (chỉ khoảng 2/10 bệnh nhân có cơ hội tiếp cận phương pháp điều trị hiện đaị này).
Bệnh ung thư dạ dày nói riêng và ung thư nói chung đang ngày càng có xu hướng gia tăng mạnh ở Việt Nam. Năm 2000, tỉ lệ mắc chung của bệnh ung thư ở nam giới là 141/100.000 dân, năm 2010 đã lên đến 181/100.000 dân. Ở nữ giới, tỉ lệ này năm 2000 là 101/100.000 dân, năm 2010 tăng lên 134/100.000 dân.
Những loại ung thư có tỉ lệ mắc mới tăng nhiều là ung thư phổi, ung thư đại trực tràng, ung thư thực quản và ung thư tiền liệt tuyến.
Riêng về ung thư dạ dày, mỗi năm Việt Nam có thêm khoảng 13.000 ca mắc mới (chưa kể các ca tái phát, quay lại điều trị lần 2 lần 3) và có khoảng 10.000 ca tử vong/năm.
GS.TS Nguyễn Bá Đức khuyến cáo: Những người từ 40 tuổi trở lên nên bắt đầu nghĩ đến chuyện nội soi dạ dày để phát hiện bệnh sớm. Tuy nhiên, những người trẻ hơn độ tuổi này cũng không nên chủ quan.
TS Nguyễn Tuyết Mai, Trưởng khoa nội 1, Bệnh viện K cho biết: có khoảng 70% bệnh nhân mắc ung thư dạ dày có độ tuổi từ 40-60. Còn lại là ở độ tuổi dưới 40, thậm chí có người dưới 30 tuổi.
Ung thư dạ dày hoàn toàn có thể được phát hiện sớm khi người bệnh có các biểu hiện như khó tiêu, nóng rát vùng thượng vị, ăn không ngon miệng (ở giai đoạn đầu). Còn ở giai đoạn trung bình, người bệnh thường mệt mỏi, đầy bụng sau ăn. Ở giai đoạn cuối: Người bệnh đau bụng, buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, xuất huyết tiêu hóa, nuốt nghẹn, sụt cân nhanh chóng, ...
Theo VNN
Bệnh nhân ung thư thực quản tự ăn được nhờ đặt stent Dù bị nấc nghẹn, nuốt vướng trong thời gian dài nhưng nhiều người chủ quan không đi khám. Đến khi không thể nuốt, sút cân... thì mới biết là ung thư thực quản giai đoạn cuối. Lúc này, đặt ống thông qua khối u sẽ giúp nâng đỡ dinh dưỡng cho người bệnh. Đa số nhập viện muộn Ông Trần Văn T (Hà...