Tin tức trong ngày Một cụ già được đưa đi sơ tán khỏi Hà Nội – Ảnh: N.N.T. chụp lại từ ảnh tư liệu Nhịp võng xe bò ngày sơ tán
Đạo diễn Việt Tùng, một trong những người hiếm hoi có cơ hội ghi lại được những khoảnh khắc lịch sử trong suốt 12 ngày đêm diễn ra cuộc ném bom Hà Nội, thường kể về những khoảnh khắc khó quên trong những ngày tàn khốc ấy.
Trong đó có câu chuyện một gia đình bốn thế hệ đi sơ tán khỏi Hà Nội trên chiếc xe bò kéo.
Bốn thế hệ trong chiếc xe bò
Đó là hình ảnh một người mẹ trẻ đang cho một em bé sơ sinh bú, là ông cụ già đội chiếc mũ bông đang đánh xe. Trong xe là lố nhố trẻ con cùng xoong nồi và chăn màn quần áo. Chiếc xe bò hướng từ Ngã Tư Sở xuống mạn Hà Đông. Đạo diễn Việt Tùng nói: “Hai ngày sau khi Hà Nội bị ném bom, các ngả đường Hà Nội ùn ùn người di tản. Tôi đã ghi lại hình ảnh những chuyến sơ tán rất trật tự của người Hà Nội. Chủ yếu bằng xe đạp và xe thô sơ thôi. Các ngả đường rời khỏi thành phố đều rất đông người nhưng không tắc ở đâu cả. Rất trật tự. Dù bom rơi đạn vãi trên đầu nhưng không thấy một sự hoảng sợ nào từ người Hà Nội. Họ đã chuẩn bị cho cuộc chiến và bình tĩnh đón nhận”.
Một cụ già được đưa đi sơ tán khỏi Hà Nội – Ảnh: N.N.T. chụp lại từ ảnh tư liệu
Đó là những hình ảnh của 40 năm về trước. Bây giờ đứa trẻ đang bú mẹ trên chiếc xe bò kéo đã 40 tuổi, con gái của chị đã học đại học năm thứ 3. Người phụ nữ lúc ấy chỉ là cô bé con giờ cũng đã lên bà… Nhưng hình ảnh về 12 ngày máy bay quần thảo trên bầu trời Hà Nội vẫn chưa nguôi phai trong tâm trí của mọi người.
“Hôm ấy là sáng 20/12, đã sang ngày thứ ba Hà Nội bị máy bay B52 giội bom. Tôi xách máy quay xuống Ngã Tư Sở ghi hình bà con đi sơ tán. Từng đoàn người ùn ùn rời thủ đô men theo quốc lộ 6. Hai bên đường chi chít hầm trú bom, nhất là đoạn Cao – Xà – Lá. Chẳng nơi nào đối diện với cuộc chiến và cái sống, cái chết như Việt Nam. Đến đứa trẻ sơ sinh đang bú mẹ cũng không thể nằm ngoài cuộc chiến. Nhìn dòng người đi sơ tán, thương lắm”. Đạo diễn Việt Tùng nói về khoảnh khắc ghi lại hình ảnh gia đình bà Nguyễn Thị Phương đi sơ tán trên chiếc xe bò trong bộ phim Hà Nội – Điện Biên Phủ của ông.
Video đang HOT
Về quê
Một buổi chiều cuối tháng 11/2012, bà Nguyễn Thị Dung (sinh năm 1957, nhà ở đường Trường Chinh, phường Ngã Tư Sở, Hà Nội) tay xách nách mang hoa quả bánh trái xuống Hà Đông. Không biết đi xe gắn máy nên bà gọi xe ôm chở đi: “Mỗi lần về Yên Nghĩa tôi vẫn gọi là về quê dù tôi không được sinh ra ở đó, cha mẹ cũng không ở đó, cũng chẳng có họ hàng nào ở đó nhưng nơi ấy có một gia đình từng là gia đình của tôi”.
Nơi mà bà Dung tìm đến là nhà cụ Đỗ Văn Khóa.
Cụ Khóa đã hơn 80 tuổi, vận bộ đồ màu nâu đang ngồi trên chiếc ghế bố giữa căn nhà to rộng mới xây dựng, mái tóc bạc trắng như cước. Thấy bà Dung đi vào, cụ móm mém cười hỏi: “Dung đấy à con? Sao lại về có một mình thế? Con Phương có khỏe không?”.
Bà Dung dựng túi xách vào chân tường, sà xuống cạnh ông Khóa: “Chị Phương đang được mời đi miền Nam nên không xuống thăm ông được, nhưng chị ấy gửi lời hỏi thăm ông và gửi cho ông ít quà”.
Trên nền đất cũ của ngôi nhà ba tầng này trước đây từng có một ngôi nhà cấp 4, ba gian và một dãy nhà ngang do bố mẹ ông cụ Khóa để lại. Ba gian nhà rộng rãi, có sập, phản, giường thờ được gia đình ông Khóa nhường lại cho gần chục người nhà bà Dung. “Lúc ấy chị Phương hơn 20 tuổi, vừa sinh con đầu lòng, chồng lại đi B nên chị Phương đi sơ tán cùng gia đình tôi. Kể cả ông bà nội, bố mẹ tôi cùng mấy chị em gần một chục người sống trong gian nhà trên. Tất cả những gì tốt nhất của nhà cụ Khóa, chúng tôi đều được ưu tiên sử dụng”.
Chiến tranh, mọi thứ đều thiếu thốn và khó khăn, nhất là những gia đình làm công ăn lương. “Nhà đông người nên chúng tôi phải ăn mì, ăn bo bo thay cơm là bình thường. Nhà cụ làm nông nghiệp nên vẫn được ăn cơm gạo mới. Thương chúng tôi đói nên mỗi bữa cụ nấu dư ra một bát, vun thật đầy rồi đưa sang cho chúng tôi ăn cho chặt dạ” – bà Dung nhớ lại.
Đã 40 năm trôi qua mà những hình ảnh về bà cụ chủ nhà mắt lòa không phai nhạt một chút nào trong trí nhớ của bà Dung cũng như những người trong gia đình bà.
Vẫn nguyên nếp làng
Bố mẹ bà Dung làm trong HTX xe bò kéo, hằng ngày ông bà cùng đôi bò rong ruổi trên nhiều nẻo đường để chở hàng hóa cho Nhà nước, chở vật liệu xây dựng để làm các công trình và phục vụ nhu cầu vận tải trong thành phố. “Bố mẹ đưa mấy ông cháu chúng tôi xuống Yên Nghĩa rồi các cụ trở lại thành phố làm việc. Không có bố mẹ nhưng chúng tôi vẫn được ăn uống đầy đủ và được chăm sóc chu đáo”.
Từ trái qua: bà Nguyễn Thị Dung, chị Nguyễn Thị Hương và bà Nguyễn Thị Phương, những nhân vật đi sơ tán trên chiếc xe bò 40 năm trước – Ảnh: Hoàng Điệp
Để chuẩn bị đón những người đồng bào mới của mình từ thành phố về sơ tán, ông Khóa đã chặt tre, luồng để đào bốn chiếc hầm chữ A ngay phía sau nhà: “Chúng tôi chỉ nghĩ người thành phố đang sống sung sướng, đầy đủ nay phải về nông thôn thì khổ lắm. Vậy nên mình có thể thiếu thốn khổ cực được vì mình quen rồi, nhưng phải nhường những gì tốt nhất cho người ta”. Những gì tốt nhất cho người ta mà gia đình gần chục người nhà bà Dung được hưởng đó chính là ngôi nhà chính ba gian và khoảnh sân rộng, là những luống rau được trồng thêm ngoài bãi, những dây cà dây bí được giắt thêm vào hàng rào để đám trẻ nhỏ có thêm thức ăn cho mỗi bữa ăn đơn điệu hằng ngày từ những cọng rau héo úa mua từ cửa hàng thực phẩm.
40 năm đã trôi qua, chưa một cái tết nào mấy chị em bà Dung không thay nhau về thắp hương trên ban thờ gia tiên nhà cụ Khóa. Và dù là giỗ mọn hay cỗ lớn thì cũng chưa khi nào mấy chị em bà vắng mặt trong những sự kiện dù vui hay buồn của gia đình. “Chúng tôi không nhận cụ là bố mẹ nuôi, cụ cũng không phải là họ hàng, nhưng những gì gia đình cụ đã dành cho chúng tôi những ngày Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc khiến tôi không thể nào quên”.
Cũng trong suốt thời gian đi sơ tán ấy, cô bé Nguyễn Thị Dung chính là người đi về như con thoi hằng tuần để tiếp tế lương thực, thực phẩm cho gia đình. “Từ Yên Nghĩa tôi đi bộ, rồi đi xe điện để về cửa hàng thực phẩm mua gạo, đậu phụ và các mặt hàng thiết yếu khác ở cửa hàng lương thực Ngã Tư Sở. Không có xe đạp nên chỉ gánh bộ thôi. Có lần đang đi bộ gần sông Nhuệ thì bị bom. Tôi vẫn ôm chặt túi gạo trong tay lăn xuống hầm cá nhân. Bởi nhà đông người nên chuyện ăn uống thật sự rất quan trọng”.
Theo 24h
Chuyện nhà ông Nguyễn Vinh Phúc
Ngày mà năm bố con thầy giáo Nguyễn Vinh Phúc (sau này là nhà Hà Nội học nổi tiếng) tay xách nách mang nào quần áo, nào chăn màn, sách vở, đồ dùng học tập lếch thếch sang Gia Lâm sơ tán theo trường cũng là lúc cô bé Nguyễn Thị Viền đang học lớp 4 trường làng.
Mấy hôm trước bố đi họp đội sản xuất về đã thông báo: nhà ta sắp có người đến ở sơ tán, nên Viền và anh trai phải biết ý tứ khi có thầy giáo đến ở cùng nhà. Vì vậy, sau giờ đi làm tập thể, mẹ tranh thủ giẫy cỏ sân vườn, cổng ngõ, quét tước cho sạch bóng mọi chỗ. Viền thì được giao nhiệm vụ lấy tro bếp kỳ cọ đến sạch tinh bộ ấm chén uống trà, sắp xếp ngăn nắp sách vở. Bà nội ngả thêm một chum tương nữa. Bố Viền đóng thêm một chiếc bàn dài kê sát cửa sổ và bảo để cho thầy giáo làm việc. Tất cả những việc ấy được làm chỉ bởi lời bố bảo: Sắp có thầy giáo đến ở nhà ta!
Học sinh rời lớp, đội mũ rơm, xuống giao thông hào ngay khi có kẻng báo động - Ảnh tư liệu
Học làm trẻ con nông dân
Ngày thầy giáo Phúc và bốn người con trứng gà trứng vịt đến nhà là ngày mà Viền vui đến mức chỉ muốn chạy sang hàng xóm khoe. Nhưng nhà hàng xóm nào cũng có người từ nội thành sang sơ tán nên nhà nào cũng vui. Nhất là đám trẻ con như Viền. Chẳng đứa nào còn nghĩ đến chuyện Mỹ ném bom và đứa trẻ con nào đi học cũng phải mang theo mũ rơm và túi cứu thương nữa. Cứ có khách là vui đã. Trong nhà có khách, đôi khi có lỗi bố cũng không mắng nhiều, không đánh bằng roi vì còn nể khách.
Không cần đến nửa ngày, Viền và những đứa trẻ con nhà thầy giáo Phúc đã ngay lập tức trở nên thân thiết. Cả mấy chị em cùng kéo nhau ra vườn nhặt cỏ, trồng rau và ra đồng mót lúa. Trẻ con dễ trở nên thân thiện.
Ngôi nhà ba gian của bố mẹ Viền được dành hẳn một gian có giường, có phản cho mấy bố con thầy giáo Phúc. Mọi đồ đạc trong nhà được dọn dẹp tinh tươm, những món nào chiếm nhiều diện tích thì được chuyển xuống bếp. Gian nhà của mấy bố con thầy giáo Phúc nhờ vậy mà sạch sẽ gọn gàng hơn. Hằng ngày ở bên này cửa sổ, Viền vừa mở sách học bài vừa vểnh tai sang bên phía cửa sổ bên kia để nghe thầy Phúc giảng bài cho chị Trinh (con gái lớn). Nghe giảng và lẩm nhẩm đọc theo. Thầy Phúc thấy đứa trẻ nhà chủ chịu khó nghe giảng vậy cũng cố nói to hơn một chút để nó nghe rõ.
Mùa đông, rau khúc mọc đầy trên ruộng cạn. Những lá rau khúc mỏng manh, phủ một lớp lông tơ trắng mượt. Chân trần giẫm trên cuống rạ. Mấy đứa trẻ sung sướng ngắt từng ngọn rau khúc, bất chấp những giọt sương lạnh buốt hay những cuống rạ đâm vào làn da chân tím tái. "Hồi ấy rau khúc nhiều lắm, mùa đông mọc đầy trên những cánh đồng cạn" - bà Viền nhớ lại. Rau khúc dùng để làm bánh khúc. Rau khúc nhặt về giã nát, trộn với đậu xanh đồ chín cùng thịt lợn để làm nhân. Vỏ bánh được làm bằng gạo nếp ngâm kỹ. Nhưng hồi ấy khó khăn, đến gạo tẻ để ăn còn không đủ thì lấy đâu ra gạo nếp. Mấy đứa trẻ hái rau khúc rồi trộn với bột mì làm bánh khúc chia nhau ăn.
Rồi những lúc rảnh rỗi khác, Viền hay dẫn Vân Anh ra đồng bắt cua bắt ốc để cải thiện bữa ăn hằng ngày cho gia đình. "Bởi chị Trinh lớn, sắp học cấp III rồi nên ba Phúc bắt chị học cả ngày, không cho đi chơi". Hai đứa trẻ mỗi đứa cầm theo một cái rổ, một cái giỏ nhỏ, xắn quần lưng bắp chân đi xúc tép kho cà. Thỉnh thoảng cũng bắt được ít cá diếc to, bà bỏ vào nồi đất kho tương. Ngon lắm. Cũng bởi sự chăm chỉ của mấy cô bé mà bữa ăn trong nhà thỉnh thoảng được cải thiện chút đỉnh. "Những người nông dân ở đó quá tốt. Suốt mấy năm đi sơ tán mà lúc nào họ cũng đối với chúng tôi như khách. Trọng thị và yêu thương" - chị Nguyễn Thị Trinh, con gái thầy giáo Nguyễn Vinh Phúc, nói.
Từ trái sang: bà Nguyễn Thị Viền, Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Thị Trinh trở thành chị em một nhà sau chuyến sơ tán cách đây 40 năm
Nếu không có ba Phúc và 6 năm sơ tán...
Câu chuyện của rất nhiều gia đình sơ tán đã dừng lại vào đầu năm 1973, khi Hiệp định Paris được ký kết. Nhưng câu chuyện giữa những đứa trẻ của gia đình thầy giáo Phúc và cô bé Viền vẫn chưa dừng lại.
Bởi chị Trinh học hơn Viền một lớp, thế nên mỗi khi chị đọc bài, học bài, Viền lại vểnh tai lên nghe để học lỏm. Thầy Phúc thấy vậy gọi Viền sang giảng thêm cho Viền những bài văn hay, những câu thơ đẹp và giảng giải cho Viền cả những tích xưa trong và ngoài sách. Cũng nhờ có trường sơ tán, lớp sơ tán và những đứa trẻ Hà Nội sơ tán mà những đứa trẻ trong làng như Viền đã có cơ hội được học nhiều hơn. Ngoài giờ làm đồng giúp bố mẹ thì chúng ganh đua nhau để được học như những đứa trẻ ở Hà Nội. Và những đứa trẻ từ Hà Nội về, ngoài việc học lại ra đồng nhặt cỏ, phơi lúa giúp nhau.
Gần hết đợt sơ tán, có đoàn văn công về tuyển Viền làm diễn viên. Bố Viền, một nông dân chính cống, rất muốn con cái thoát ly khỏi cuộc sống ruộng đồng đã nói chuyện với thầy Phúc, đại ý xin thầy một lời khuyên về việc có cho con bé theo đoàn văn công không. Thầy Phúc nói: Con bé thông minh, sáng dạ, nên cho nó đi học tiếp lên cấp III.
Hòa bình, năm bố con thầy giáo Nguyễn Vinh Phúc trở về Hà Nội, mang theo cả cô bé Viền lúc ấy vừa vào lớp 8. "Bố tôi bị bệnh, trước khi mất nhờ ba Phúc chăm lo cho tôi. Ba Phúc nhận lời và nói tôi sẽ là đứa con thứ 6 của ba" - bà Viền nói.
Học hết cấp III, thi vào Đại học Y, Viền tốt nghiệp và đi làm. Ngôi nhà ở số 72 Ngô Quyền (Hà Nội) trở thành nhà của Viền cùng các anh chị em con thầy giáo Phúc. "Tôi nghĩ cuộc đời tôi sẽ không được như hôm nay nếu không có ba Phúc và sáu năm sơ tán. Ba Phúc chăm lo cho tôi từ nhỏ, đến cả khi lấy chồng, mỗi khi gặp chuyện gì bế tắc tôi đều tìm đến ba như một người bạn lớn" - bà Viền tâm sự.
Bây giờ thì bà Viền đã nghỉ hưu. Cả hai người con gái khác của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc cũng thế. Họ vẫn gặp nhau hằng tuần để chia sẻ chuyện gia đình, công việc, con cái. Vẫn ríu rít như chim khi nhắc về những kỷ niệm cách đây hơn 40 năm.
Còn nhớ khi nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc còn sống, có lần ông kể: "Gia đình tôi sơ tán ở chùa Keo Gia Lâm cách Hà Nội 20km cùng với cả trường. Nông dân của ta rất tốt, chào đón và dành những điều kiện tốt nhất cho người sơ tán: dành nhà to, từ đường cho người sơ tán ở, còn gia đình mình thì ở nhà ngang, nhà bếp. Ngay trong cuộc sống cũng có sự tương trợ: có miếng ăn ngon cũng nhường cho những người sơ tán, có rau ngoài vườn thì cho ăn chung, đi tát đồng được ít cua cá cũng chia cho đồng bào...
Những điều đó nói lên cái gì? Đó chính là tinh thần cộng đồng được đặt lên trên hết, trong khó khăn người và người chia sẻ cho nhau. Thành ra người đi sơ tán yên tâm, người ở lại nội thành cũng yên tâm, nông dân cũng hài lòng vì đã giúp đỡ được đồng bào sơ tán thực hiện chủ trương của thành phố. Tình người lúc ấy thật cao cả. Đó chính là bản sắc của người VN là tôn trọng cộng đồng, tương thân tương ái và lá lành đùm lá rách".
Theo 24h
Lớp học thời sơ tán Trong thời gian cao điểm của chiến tranh phá hoại miền Bắc, đã có khoảng 260.000 học sinh các cấp cùng 50.000 sinh viên, học sinh chuyên nghiệp rời trung tâm Hà Nội sơ tán ra ngoại thành và các tỉnh lân cận. Các em tiếp tục đến trường: học chữ, học làm mũ rơm, học làm trường, làm hầm, đào hào... Và...