Tín dụng tăng trưởng chậm
Tính đến ngày 16-6, tăng trưởng tín dụng ngành ngân hàng chỉ đạt 2,13% so với đầu năm 2020. Như vậy gần 6 tháng năm 2020, tăng trưởng tín dụng chỉ bằng một nửa so với cùng kỳ năm 2019 (ở mức 5,7%), do ảnh hưởng nặng bởi dịch Covid-19.
Tín dụng phù hợp với tăng trưởng kinh tế
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, mặc dù tăng trưởng tín dụng gần 6 tháng mới đạt 2,13%, thấp nhất trong nhiều năm qua, nhưng mức tăng trưởng tín dụng này vẫn được xem là phù hợp trong bối cảnh bước đầu chống dịch thành công của Việt Nam.
“Chính sách điều hành của NHNN đã bám sát diễn biến dịch Covid-19, kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, bảo đảm chất lượng tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp (DN), người dân tiếp cận vốn ngân hàng để khôi phục nhanh chóng sản xuất, kinh doanh. Dù vậy, dưới tác động của dịch Covid-19, khả năng hấp thụ vốn của các DN chưa cao khiến tín dụng tăng thấp”, ông Hùng phân tích.
Khách hàng đang thực hiện giao dịch tại Vietcombank. Ảnh: HUY PHAN
Về cơ cấu tín dụng, tín dụng lĩnh vực nông nghiệp nông thôn tăng 0,35%; lĩnh vực xuất khẩu tăng 4,94%, trong khi cùng kỳ năm 2019 tăng trên 10%; lĩnh vực công nghệ cao tăng 2,92% và công nghiệp hỗ trợ tăng 2,27%. Đáng lưu ý, tín dụng lĩnh vực DN nhỏ và vừa giảm 0,7%; lĩnh vực tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu đời sống cũng giảm.
Như vậy có thể thấy, tăng trưởng tín dụng tập trung vào lĩnh vực ưu tiên tăng là chủ yếu, trong đó lĩnh vực tiêu dùng cũng như DN nhỏ và vừa chịu ảnh hưởng rất lớn.
Riêng trên địa bàn TPHCM, ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc NHNN chi nhánh TPHCM thông tin, tín dụng tăng chậm trong 5 tháng đầu năm và tiếp tục tập trung vào 5 nhóm, lĩnh vực ưu tiên. Trong đó, tín dụng tháng 1-2020 tăng 0,25%, tháng 2 tăng 0,13%, tháng 3 tăng 1,11%, tháng 4 giảm nhẹ 0,05% và tháng 5 tăng 1,7%. Đến cuối tháng 5-2020, dư nợ tín dụng mới bắt đầu tăng mạnh nhất khi tăng 1,57% so với cuối năm 2019 và dự ước đến 30-6, tín dụng trên địa bàn tăng 2,52% (giảm hơn một nửa so với 6 tháng cùng kỳ, tăng 7%).
Theo ông Minh, hoạt động tín dụng tăng trưởng chậm phản ánh đúng xu hướng thị trường, tình hình hoạt động của DN và tình hình tăng trưởng kinh tế – xã hội trong điều kiện dịch bệnh, nhiều hoạt động kinh tế, nhiều ngành lĩnh vực bị suy giảm sản xuất, ngưng hoạt động thậm chí đóng cửa.
Nhìn chung, tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các ngân hàng thương mại (NHTM) lớn, nhưng hiện nay cho vay ở tình trạng chung là khó tăng trưởng.
Ông Nghiêm Xuân Thành, Chủ tịch HĐQT Vietcombank, cho biết, đầu năm Vietcombank đặt mục tiêu lợi nhuận 26.600 tỷ đồng trước thuế, tăng trưởng tín dụng trên 14%. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nên Vietcombank phải điều chỉnh mục tiêu tín dụng ở mức 10% và có khả năng đạt được.
Đến hết quý 1-2020, trong khối ngân hàng quốc doanh, cũng là khối ngân hàng lớn, chỉ có Vietcombank là tăng trưởng tín dụng dương trên 2% (3 ngân hàng còn lại là BIDV, VietinBank, Agribank đều giảm) và gần hết 5 tháng đầu năm 2020, tăng trưởng tín dụng của Vietcombank đạt 3%. Theo ông Thành, tín dụng đạt mức hiện nay là do ngân hàng tập trung sang bán lẻ, dịch vụ.
Lãnh đạo Vietcombank cũng cho biết, vốn ngân hàng dư thừa, thanh khoản dồi dào nên lãi suất huy động giảm kéo theo lãi suất cho vay giảm. Hiện, một số khoản vay của DN tại Vietcombank chỉ ở mức 4,5%/năm, trong khi đó, lãi suất cho vay thấp nhất là 5,5%/năm.
Một số DN kêu không tiếp cận được vốn nhưng do dự án, phương án kinh doanh chưa đủ chuẩn, chưa hiệu quả. Nếu DN đáp ứng được điều kiện tín dụng thì ngân hàng sẽ cung ứng vốn. Dù vậy, ông Thành cũng khẳng định, ngân hàng chỉ giảm lãi suất cho vay chứ không hạ chuẩn vay, nhằm kiểm soát chất lượng tín dụng. Vì tình hình dịch bệnh, chất lượng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng trong thời gian tới nên Vietcombank đã tăng trích lập dự phòng để bao nợ xấu.
Chưa ai được vay gói hỗ trợ 16.000 tỷ đồng
Video đang HOT
Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, tín dụng tăng trưởng thấp trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 vì DN ở nhiều lĩnh vực bị tác động nặng, nhu cầu vay không lớn. Thời điểm này, khó khăn của DN và người dân là dòng tiền, do đó ưu tiên hàng đầu của ngành ngân hàng là tái cơ cấu, giãn nợ…
Tính đến ngày 8-6, sau hơn 2 tháng triển khai các chính sách hỗ trợ tín dụng đối với khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng dịch Covid-19, toàn hệ thống ngân hàng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho trên 249.100 khách hàng với tổng dư nợ 172.365 tỷ đồng. Hệ thống các tổ chức tín dụng đã miễn, giảm lãi suất cho 403.177 khách hàng, dư nợ ước trên 1,2 triệu tỷ đồng.
Trong các chương trình tín dụng của Chính phủ, tính đến nay Ngân hàng Chính sách xã hội (CSXH) đã gia hạn nợ cho 152.796 khách hàng, tương đương tổng dư nợ tín dụng chính sách hơn 3.856 tỷ đồng.
Cùng với đó, Ngân hàng CSXH cũng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho 75.209 khách hàng, tổng số dư nợ trên 1.567 tỷ đồng, cho vay mới hơn 21.149 tỷ đồng với 826.473 khách hàng.
Theo NHNN, tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản toàn ngành NH cả năm 2019 ở mức 8,8%. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng của ngành NH 6 tháng đầu năm 2020 giảm nên tín dụng bất động sản cũng tăng chậm. Sở dĩ tín dụng bất động sản vẫn tăng trong bối cảnh dịch Covid-19 là do tiến độ giải ngân cho khách hàng mua nhà vẫn theo tiến độ của dự án đã triển khai. Tính đến cuối tháng 3-2020, tín dụng lĩnh vực bất động sản tăng 1,23% so với cuối năm 2019, chiếm 19,31% tổng dư nợ tín dụng. Trong đó, dư nợ phục vụ nhu cầu nhà ở chiếm 62,43% tổng dư nợ cho vay bất động sản.
Riêng tại TPHCM, tín dụng bất động sản gần 6 tháng đầu năm nay tăng khoảng 1%, chiếm 12,8% trong tổng dư nợ của các ngân hàng trên địa bàn.
Ông Nguyễn Quốc Hùng cho biết thêm, thời gian đầu, nhiều DN phản ánh chưa tiếp cận được chính sách nhưng ông Hùng khẳng định, không có một khách hàng nào nợ đến hạn mà không được cơ cấu nợ.
Mặc dù vậy, gói tín dụng 16.000 tỷ đồng với lãi suất 0%/năm (cho DN vay để trả cho người lao động ngừng việc do ảnh hưởng của dịch Covid-19 được triển khai theo Quyết định 15/2020 của Thủ tướng Chính phủ), sau hơn 1 tháng triển khai, hiện chưa DN nào được vay.
Lý giải việc này, ông Hùng cho biết, NHNN đã dành sẵn 16.000 tỷ đồng để Ngân hàng CSXH giải ngân cho DN, đồng thời vào cuộc tích cực để triển khai như ban hành Thông tư 05/2020 quy định về tái cấp vốn đối với Ngân hàng CSXH giải ngân.
Tuy nhiên, để phê duyệt cho DN đủ điều kiện vay vốn, phải có từ 20% lao động hoặc từ 30 người lao động trở lên đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, ngừng việc từ một tháng liên tục trở lên; đã trả trước tối thiểu 50% tiền lương ngừng việc cho người lao động trong thời gian từ ngày 1-4 đến hết 30-6.
DN đang gặp khó khăn về tài chính, không cân đối đủ nguồn để trả lương ngừng việc cho người lao động, đã sử dụng hết quỹ dự phòng tiền lương để trả cho người lao động ngừng việc. Đặc biệt, không có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại thời điểm ngày 31-12-2019…
“Mục đích của gói tín dụng là giúp DN vay để trả lương nhằm giữ chân người lao động, từ đó có thể quay lại sản xuất kinh doanh, nhanh chóng phục hồi sau dịch. Tuy nhiên các điều kiện tiếp cận khoản vay này không dễ nên chưa ai đáp ứng được”, ông Hùng phân tích.
Nhằm tháo gỡ vướng mắc này, Thủ tướng cũng đã chỉ đạo Bộ LĐTB-XH phối hợp với NHNN điều chỉnh tiêu chí để DN tiếp cận được gói hỗ trợ. Hiện, hai cơ quan trên đã trình Chính phủ sửa đổi Quyết định 15/2020 nhằm sớm giải ngân được gói tín dụng này.
Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng:
Sẵn sàng cung ứng vốn cho nền kinh tế
Tín dụng tăng thấp giúp thanh khoản của các NHTM đang dồi dào, tạo điều kiện duy trì mặt bằng lãi suất thấp. Bản thân NHTM cũng đang nỗ lực tiết giảm chi phí, thậm chí cắt giảm lương thưởng để giảm lãi suất cho khách hàng. Với những DN đủ điều kiện vay vốn, các NHTM sẽ đáp ứng. NHNN sẵn sàng cung ứng vốn đủ cho nền kinh tế, trường hợp cần thiết sẽ tái cấp vốn cho các NHTM để có nguồn vốn bơm ra thị trường. Tính đến giữa tháng 6, tổng doanh số cho vay mới lũy kế từ khi Chính phủ công bố dịch bệnh (ngày 23-1) đạt gần 1 triệu tỷ đồng với lãi suất thấp hơn 0,5%-2,5% so với trước khi dịch Covid-19 xảy ra.
Ngân hàng thương mại cần cố gắng cầm cự, không vội phản công
Phải bảo vệ bằng được các ngân hàng thương mại, không để một ngân hàng nào gặp rủi ro, làm ảnh hưởng đến hệ thống.
Trong tình hình hiện nay vẫn phải cố gắng cầm cự, không được phản công vội. Chừng nào có cơ hội, thị trường trong nước phục hồi trở lại và các yếu tố bên ngoài giúp cho phục hồi mạnh hơn, thì lúc bấy giờ mới phản công, chuyên gia tài chính ngân hàng Lê Xuân Nghĩa cảnh báo.
- Hiện nay các ngân hàng thương mại được yêu cầu giảm lãi suất để chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp. Ông nhìn nhận điều này như thế nào?
Điều đó thể hiện sự chia sẻ trong khó khăn thôi chứ rất khó. Muốn giảm lãi suất đầu ra cần giảm lãi suất đầu vào. Mà lãi suất đầu vào lại phụ thuộc vào bẫy thanh khoản, một thuật ngữ trong ngành tài chính. Tức anh hạ lãi suất đến mức độ nào đó là dân không muốn gửi tiết kiệm nữa; họ đi mua vàng, đô la, cho vay chợ đen,... Đến ngưỡng đó thì huy động giảm hẳn. Mà bẫy này làm giảm lòng tin, mà muốn tăng lại là rất khó. Cho nên cần cân đong đo đếm như thế nào để tránh được cái bẫy đó.
Tôi tính toán trong cuộc khủng hoảng cách đây hơn 10 năm, bẫy thanh khoản của Việt Nam khoảng 3,6%, nhưng đấy là lý thuyết thôi, chứ kể cả lãi suất ở mức 4% họ cũng chạy rồi. Cho nên hạ lãi suất là con dao hai lưỡi.
Hiện nay, các nước muốn hạ lãi suất thì chính phủ bù lỗ, tài trợ thẳng cho các ngân hàng. Như Mỹ, họ tài trợ 878 tỷ USD tập trung cho 4 ngân hàng chính và 4 tập đoàn lớn. Tự nhiên, 4 ngân hàng đó có một lượng tiền lớn, họ tự hạ lãi suất được cho đầu ra, chứ không hạ lãi suất cho đầu vào.
- Nhưng doanh nghiệp cũng đang rất khó khăn tiếp cận vốn? Liệu có nên hạ tiêu chuẩn cho vay không?
Nguyên tắc là không nên hạ tiêu chuẩn cho vay vì làm thế là làm hỏng nền tài chính. Tôi cho là, cần có nguồn tài chính bổ sung. Chúng ta vẫn có một lượng dự trữ ngoại hối lớn, có thể bỏ ra, nhưng bỏ ra lúc nào, bao nhiêu còn là nghệ thuật. Vấn đề là vẫn phải bảo vệ bằng được các ngân hàng thương mại, không để một ngân hàng nào rủi ro, làm ảnh hưởng đến hệ thống.
Ngân hàng thương mại cần cố gắng cầm cự, không vội phản công.
- Nên tài trợ như thế nào xét từ kinh nghiệm xương máu của gói hỗ trợ lãi suất trị giá 1 tỷ đô cách đây một thập kỷ, mà ông từng nói, gói đó đã gây ra rủi ro đạo đức và hệ lụy lớn?
Tôi cho là nên chọn ra hơn chục ngân hàng lớn để tài trợ cho họ, hoặc thông qua thị trường liên ngân hàng để rải đều tiền ra. Ông to thì có nhiều, ông nhỏ có ít hơn.
Các nước trên thế giới đều đang dùng các gói kích thích rất lớn, họ dùng từ mĩ miều để nói thôi chứ thực chất là in tiền, in số lượng lớn chưa từng có trong lịch sử. Mỹ dùng từ "gói nới lỏng tiền tệ", Châu Âu thì dùng cụm từ "mở rộng gói cân đối tài sản của ngân hàng trung ương", Nhật Bản thì dùng "mua sắm tài sản",... mà thực chất là in tiền.
Các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga nói họ cũng phải bơm vì lo ngại tỷ giá bị tác động bởi các quốc gia trên, gây thiệt trong xuất khẩu. Vậy là nước nào cũng bơm tiền, phá giá tiền tệ của mình. Muốn cạnh tranh nhau về xuất khẩu thì phải giữ tỷ giá cạnh tranh. Vậy là chu kỳ sau lạm phát sẽ ác liệt.
- Khi nào thì đến lúc can thiệp gói đó?
Trong tình hình hiện nay vẫn phải cố gắng cầm cự, không được phản công vội. Chừng nào có cơ hội, thị trường trong nước phục hồi trở lại và các yếu tố bên ngoài giúp cho phục hồi mạnh hơn, thì lúc bấy giờ mới phản công. Mà khi đã phản công thì phản công mạnh mẽ, dùng đến vài tỷ đô từ dự trữ ngoại hối mới tạo ra được sức bật cho các ngân hàng thương mại, cho thị trường bất động sản phục hồi. Tuy nhiên, xong là phải rút tiền về. Chứ còn bơm ở thời điểm này, khi doanh nghiệp đang đình trệ, thì hỏng, bơm đồng nào mất đồng ấy.
- Con số 900.000 tỷ đồng được cơ cấu lại nói lên điều gì?
Nợ xấu đúng bằng con số đó. Hiện nay đâu đó nợ xấu để lại cỡ 300-400 ngàn tỷ đồng. Cộng thêm số đó nữa. Bao nhiêu nỗ lực, bao nhiêu công sức đã bỏ ra...
Sau nhiều nỗ lực, hệ thống ngân hàng như người bệnh được đưa từ phòng cấp cứu lên phòng điều trị, rồi từ phòng điều trị đưa ra đến cổng. Nay gặp dịch Covid-19, không khéo lại quay trở lại phòng cấp cứu. Mất hơn 10 năm trời, từ 2007 đến 2018 mới ngoi lên khỏi mặt nước. ROE toàn hệ thống khoảng 8-9% năm 2007 cùng tạm tạm, tụt xuống rồi mãi đến năm 2019 mới lên được 18-19%, gần như là bình thường. Nay như thế này thì cả ROE và cả ROA lại tụt xuống.
- Tăng trưởng tín dụng 5 tháng đầu năm mới đạt 1,96%, bằng 1/3 so với mức tăng 5,7% cùng kỳ năm ngoái. Ông dự báo tăng trưởng tín dụng khoảng bao nhiêu năm nay?
Tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm cùng lắm được 3%, sáu tháng cuối năm thường gấp đôi sáu tháng đầu năm là 6%, vậy tổng cộng là 9%. Như vậy cũng là tốt lắm rồi.
- Theo ông, có những ngành nào cần được quan tâm nhất để thúc đẩy cho vay, đảm bảo tăng trưởng và an toàn hệ thống.
Lĩnh vực bất động sản là đầu tiên. Tuy nhiên, còn rất nhiều rào cản cần dỡ bỏ ngay để thị trường này phát triển.
Ví dụ, một dự án sau khi san lấp, xây dựng cơ ở hạ tầng thì có giá thành 6 triệu/m2, chịu thuế nữa thì giá thành 12 triệu/m2, rồi được bán có 50% diện tích thôi nên giá nở ra là 24 triệu đồng/m2. Như thế thì lấy đâu ra nhà giá rẻ, dân chúng lấy đâu tiền ra mua. Chưa kể là tiền lobby dự án rất kinh khủng. Đó là trở ngại về chi phí.
Thứ hai, gần đây có rất nhiều quy định gây trở ngại, ví dụ đấu thầu đất công. Nghe thì có vẻ hợp lý nhưng thực tế lại khác. Có miếng đất công doanh nghiệp đã thuê cách đây 20 năm, giờ chuyển đổi thành đất tư thì Nhà nước phải gọi ông khác vào đấu thầu, hoặc có dự án được doanh nghiệp hình thành từ đầu, nay Nhà nước mang ra đấu thầu, và rồi doanh nghiệp khác thắng. Vậy là doanh nghiệp mất tiền, mất của,... Những thứ đó làm cho các nhà phát triển bất động sản e ngại.
Đó là chưa kể nhiều thủ tục nhiêu khê, mất 3-5 năm mới xong cho một dự án bất động sản; rồi chi phí này khác cũng rất nhiều.
Nếu không có các chi phí đó, giá nhà rẻ xuống thì dân chúng vẫn cứ mua được vì nhu cầu rất lớn. Cộng với hỗ trợ tính dụng, ví dụ, cho vay 60% giá trị căn nhà còn lại tự trả thì tạo ra nhu cầu ngay. Người trẻ có nhu cầu ở nhà chung cư rất lớn. Tôi cho thị trường bất động sản vẫn rất quan trọng.
- Liệu ngoài bất động sản thì còn ngành nào có thể cho vay?
Theo nghiên cứu của tôi, nông sản, dệt may vẫn giữ được nhịp tăng trưởng như không có bệnh dịch. Bất động sản thì trung tính. Còn lại các ngành khác sụt giảm hết, nhất là dịch vụ.
Vậy, từ góc độ chứng khoán, thử tư duy ngành nào sụt giảm thì ném tiền vào cho nó. Ví dụ cổ phiếu một doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi phối trước đây có giá 40.000 đồng, giờ còn 20.000 đồng, thì ném tiền vào đó sẽ lên 30.000 đồng. Nhưng điều đó lại mâu thuẫn với hợp đồng tín dụng, quy định về tín dụng. Anh em làm tín dụng nói, nếu tiền của chúng em thì chúng em sẵn sàng đầu tư, nhưng ko phải, sau này làm sao thì trả giá đắt.
Đợt rồi có nhiều người thắng chứng khoán kinh khủng. Tôi biết có người có ngày thắng cả trăm ngàn đô, có người thắng hàng cả triệu đô trong vòng 1 tuần ngay tại thị trường này. Như vậy ngân hàng vẫn có cơ sở cho vay. Không như ở các nước, doanh nghiệp phá sản là cho phá sản, Việt Nam ta thì tìm mọi cách cho doanh nghiệp phục hồi. Khi phục hồi thì giá cổ phiếu sẽ tăng lên.
Một loạt ngân hàng báo cáo sớm kết quả quý 2, lợi nhuận đạt được vẫn khả quan Kết thúc 5 tháng đầu năm nay và ước đến hết tháng 6/2020, các ngân hàng quy mô đã hoàn thành được 40-50% kế hoạch lợi nhuận năm. Tuy nhiên, tình hình tín dụng tăng trưởng chậm. Hoàn thành 40-50% kế hoạch lợi nhuận Ông Nghiêm Xuân Thành, Chủ tịch HĐQT Vietcombank cho biết, kết thúc 5 tháng đầu năm nay, Ngân hàng...