Tìm ra loại thuốc cứu cả trăm triệu người nhờ chiếc đĩa bẩn
Trở lại phòng thí nghiệm sau kỳ nghỉ 2 tuần, Fleming phát hiện ra điều bất thường trong chồng đĩa bẩn để ở bồn rửa.
Nhà vi khuẩn học Alexander Fleming được ca ngợi là một trong những bộ óc thông minh nhất trong lịch sử khoa học. Time từng tả ông là “một người Scotland thấp bé (1,7m), hiền lành với đôi mắt xanh hơi mơ màng, mái tóc trắng”.
Được công nhận là một nhà khoa học tài năng nhưng Fleming lại có tật xấu bừa bộn. Nhưng chính thói quen cẩu thả đó lại đưa ông đến một khám phá vĩ đại, giúp ông cùng hai nhà khoa học khác giành được giải Nobel năm 1945. Đó là phát hiện ra penicillin và tác dụng chữa nhiều bệnh truyền nhiễm khác nhau.
Nhà khoa học Alexander Fleming trong phòng thí nghiệm năm 1952. Ảnh: Britannica
Đây là một sự kiện quan trọng đối với nhân loại, báo hiệu buổi bình minh của thời đại kháng sinh. Trước đó, không có cách chữa trị các bệnh nhiễm trùng như lậu, nhiễm độc máu, viêm màng não, viêm phổi hoặc sốt thấp khớp. Theo ước tính của Nesfircroft, cho đến nay, penicillin đã cứu được hơn 200 triệu sinh mạng.
Phát hiện của nhà khoa học bề bộn nhưng tinh ý
Tháng 9/1928, Fleming rời phòng thí nghiệm ở London để đi nghỉ hai tuần tới Scotland mà không thèm dọn dẹp, vứt cả chồng đĩa petri (thường dùng để nuôi cấy vi sinh vật) trong bồn rửa. Các đĩa này chứa Staphylococcus, loại vi khuẩn gây đau họng, áp xe và mụn nhọt.
Khi quay trở lại làm việc, Fleming thấy một chiếc đĩa bẩn đã nhiễm nấm mốc. Xung quanh đó không có sự tồn tại của vi khuẩn Staphylococcus.
Video đang HOT
Một nhà khoa học kém tinh ý hoặc ngăn nắp sẽ nhanh chóng loại bỏ chiếc đĩa bị tạp nhiễm. Nhưng Fleming nhận ra rằng nấm mốc dường như đã ức chế sự phát triển của vi khuẩn. Chiếc đĩa bẩn đã thay đổi lịch sử y học.
Trên thực tế, Fleming rất thích thú với nấm mốc, vi khuẩn và còn sử dụng chúng bên ngoài phòng thí nghiệm để vẽ tranh. Theo tạp chí Smithsonian, Fleming dùng vi khuẩn để sáng tác nghệ thuật trong thời gian rảnh rỗi. Ông vẽ tranh phong cảnh và tĩnh vật bằng cách phát triển vi khuẩn với các sắc tố tự nhiên khác nhau để tạo ra màu sắc mong muốn.
Khi nghiên cứu sâu hơn, Fleming phát hiện nấm mốc trên chiếc đĩa bẩn tạo ra chất có khả năng tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn nguy hiểm. Ông đặt tên cho chất này là penicillin (vì thuộc nhóm nấm Penicillium). Ông cùng các trợ lý dự định tách penicillin nguyên chất.
Fleming đã công bố phát hiện của mình vào năm 1929 trên tạp chí Bệnh học Thực nghiệm của Anh. Tuy nhiên, ông không thể cô lập chất này nên đã ngừng nghiên cứu penicillin vào năm 1931.
Sáng chế ra Penicillin là bước tiến quan trọng trong lịch sử y học. Ảnh: Nesfircroft
Sự phát triển của penicillin
Mặc dù Alexandre Fleming phát hiện ra penicillin nhưng chính Howard Florey, Ernst Chain và các đồng nghiệp tại Đại học Oxford mới biến chất đó thành loại thuốc cứu sống mạng người.
Năm 1939, chiến tranh bắt đầu khiến việc nghiên cứu trở nên đặc biệt khó khăn. Dù vậy, Florey cùng một nhóm trong đó có Heatley – chuyên gia về nấm và Chain tinh chế thành công penicillin từ một mẫu nấm mốc Penicillium của Fleming.
Ngày 25/5/1939, nhóm tác giả đã tiêm vào 8 con chuột một chủng Streptococcus nguy hiểm. Sau đó, họ cho 4 con dùng penicillin. Sáng hôm sau, cả bốn con vẫn còn sống. Bốn con làm đối chứng không dùng thuốc đã chết.
Tháng 2/1941, viên cảnh sát người Anh Albert Alexander, 43 tuổi, là người đầu tiên sử dụng penicillin. Trong lúc tỉa hoa hồng, anh đã gãi lên khóe miệng và bị nhiễm trùng, áp xe ảnh hưởng toàn bộ cơ thể, đe dọa tính mạng.
Khi dùng penicillin, Albert đã hồi phục đáng kể trong vòng 24 giờ đầu tiên. Thật không may, nguồn cung cấp penicillin đã cạn kiệt trước khi anh có thể bình phục hoàn toàn. Viên cảnh sát qua đời.
Ngay sau đó, những bệnh nhân khác được sử dụng penicillin và đạt được hiệu quả đáng khích lệ. Nước Anh lên kế hoạch cung cấp loại thuốc này cho quân đội trên chiến trường. Tuy nhiên, điều kiện thời chiến khiến việc sản xuất hàng loạt loại thuốc này rất khó khăn nên nhà khoa học Florey đã nhờ Mỹ giúp đỡ.
Năm 1941, với sự hỗ trợ của Quỹ Rockefeller, Florey và Heatley tới Mỹ để kêu gọi các hãng dược sản xuất penicillin quy mô lớn. Một số doanh nghiệp hàng đầu, bao gồm Merck, Squibb và Pfizer, bắt đầu nghiên cứu và sản xuất penicillin.
Cuối năm 1942, lượng penicillin đủ để điều trị cho chưa đầy 100 bệnh nhân. Đến tháng 9/1943, thuốc được cung cấp cho toàn bộ Lực lượng Vũ trang Đồng minh. Đến cuối Thế chiến thứ 2, các công ty Mỹ sản xuất được 650 tỷ liều thuốc mỗi tháng.
Gia tăng bệnh nhân biến chứng đái tháo đường
Từ sau Tết đến nay, Bệnh viện Nội tiết trung ương luôn trong tình trạng quá tải do số bệnh nhân đái tháo đường nhập viện cấp cứu vì biến chứng nặng tăng vọt...
Bệnh nhân nhập viện do biến chứng đái tháo đường được chăm sóc và điều trị tại Bệnh viện Nội tiết trung ương. Ảnh: BVCC.
Thông tin từ Bệnh viện Nội tiết trung ương, gần đây, Khoa điều trị tích cực của bệnh viện luôn trong tình trạng quá tải. Số ca nhập viện cấp cứu do biến chứng nặng tăng lên so với cùng kỳ các năm trước. BS Tôn Thất Kha - Trưởng khoa Điều trị tích cực cho biết, có thời điểm lượng bệnh nhân cấp cứu tăng 200% so với cùng kỳ năm 2023. Điển hình, vào đêm Giao thừa, kíp trực đã hoạt động hết công suất khi liên tục tiếp nhận các ca cấp cứu biến chứng nặng.
Trong đó, đa phần là các bệnh nhân lớn tuổi đái tháo đường lâu năm mắc phải một bệnh nhiễm trùng, thông thường là hô hấp do thời tiết lạnh và tiết niệu hoặc là biến chứng bàn chân.
"Một vài trường hợp điển hình đang được chăm sóc và điều trị tại bệnh viện, như bệnh nhân Đ.V.S. (66 tuổi, ở Tuyên Quang) nhập viện trong tình trạng phù phổi cấp, viêm phổi, đái tháo đường typ 2, tăng huyết áp, suy tim, suy thận, rối loạn chuyển hóa. Hay bệnh nhân T.M.T. (85 tuổi, ở Hà Nội) có tiền sử đái tháo đường hơn 10 năm, tai biến mạch máu não đã 3 lần. Trong đó, lần gần nhất cách đây 3 tháng đã nhập viện trong tình trạng loét vị trí tỳ đè vùng cùng cụt, vùng mông 2 bên, vết thương lan rộng, hoại tử, chảy dịch mủ nhiều. Đây là tình trạng nguy hiểm có thể xảy ra khi người bị đái tháo đường không kiểm soát được mức đường huyết trong máu" - BS Kha thông tin.
Đối với người lớn tuổi, khi mắc một bệnh nhiễm trùng, việc kiểm soát đường huyết trở nên rất phức tạp, đòi hỏi phải thay đổi phác đồ điều trị. Đặc biệt, người bệnh còn có nguy cơ gặp phải tình trạng sốc nhiễm trùng - giai đoạn nặng nhất của quá trình liên tục bắt đầu từ đáp ứng viêm hệ thống do nhiễm trùng, nhiễm trùng nặng.
Khi chuyển sang giai đoạn sốc nhiễm khuẩn, bệnh nhân đã bị nhiễm trùng huyết kèm theo tụt huyết áp và rối loạn chức năng tim mạch. Ở giai đoạn này, tiên lượng bệnh đã khá nặng, nguy cơ tử vong có thể lên tới 40 - 60%.
Theo BS Nguyễn Đăng Quân - Phó khoa Điều trị tích cực (Bệnh viện Nội tiết trung ương), các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm trùng huyết có thể khó phát hiện và thường dễ bị nhầm lẫn với các bệnh lý cấp cứu khác, như sốc tim, sốc giảm thể tích, thuyên tắc phổi. Đặc biệt là ở người bệnh đái tháo đường, các triệu chứng lâm sàng thường mờ nhạt, khó phát hiện nếu không thăm khám một cách kĩ càng và có hệ thống. Với nhiễm khuẩn huyết, bệnh nhân thường có biểu hiện của hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (SIRS) bao gồm: Sốt cao (trên 38 độ C hoặc có thể hạ thân nhiệt dưới 36 độ C), thở nhanh, nhịp tim nhanh, tuy nhiên huyết áp vẫn duy trì bình thường. Các dấu hiệu khác của nguyên nhân nhiễm trùng như: Khó thở, ho khạc đờm, đờm vàng/xanh nếu nhiễm trùng hô hấp hay tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu ra mủ nếu nhiễm trùng hệ tiết niệu...Khi nhiễm trùng huyết nặng hơn hoặc có sốc nhiễm trùng, dấu hiệu sớm được ghi nhận là tụt huyết áp, kèm theo suy giảm tri giác. Huyết áp giảm, nhưng da vẫn ấm. Sau đó, nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, các chi thường trở nên lạnh và nhợt nhạt, nổi vân tím. Tình trạng suy đa tạng tiến triển sẽ nhanh chóng khiến người bệnh tử vong.
Theo BS Tôn Thất Kha, bệnh nhân đái tháo đường cần theo dõi, kiểm tra đường huyết thường xuyên. Tuy nhiên, nhiều người bệnh trì hoãn việc đi khám đúng hẹn, không tuân thủ yêu cầu của bác sĩ điều trị, còn lơ là, chủ quan trong việc chăm sóc và theo dõi tại nhà gây ra những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là những tổn thương không đảo ngược được, nên việc phát hiện sớm sẽ tận dụng được thời gian "vàng" trong điều trị. Chi phí điều trị cho bệnh nhân phát hiện sớm cũng thấp hơn nhiều so với bệnh nhân phát hiện muộn, không trở thành gánh nặng cho gia đình người bệnh và xã hội.
Theo TS.BS Lê Quang Toàn - Trưởng khoa Đái tháo đường (Bệnh viện Nội tiết trung ương), với các bệnh nhân đường huyết không ổn định, có các biến chứng mức độ trung bình nặng trở lên, thời gian khám bệnh từ 2 - 3 tháng là quá dài. Bệnh nhân nên đi khám theo chỉ định của bác sĩ. Nếu có dấu hiệu bất thường cần đến ngay cơ sở y tế chuyên khoa để nhận được sự hỗ trợ cần thiết.
Nguyên nhân phổ biến gây tiêu chảy ở trẻ nhỏ Tiêu chảy là một trong những căn bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ vào bất kì mùa nào trong năm. Tiêu chảy là căn bệnh phổ biến ở trẻ nhỏ. Ảnh minh họa: Shutterstock. Tiêu chảy ở trẻ em là hiện tượng đi ngoài phân lỏng thường xuyên từ 3 lần trở lên trong ngày. Trẻ cũng có thể bị một hoặc nhiều...