Thống đốc: “Chúng tôi đang phải căng như dây đàn”
“Chúng tôi đang phải căng như dây đàn, tay trái thả ra đồng nào là tay phải tính chuyện thu về đồng đó”…
Theo thống kê, tỷ trọng dư nợ cho bất động sản khoảng 10%, cho vay tiêu dùng khoảng 6%, phần còn lại là sản xuất – Ảnh minh họa.
Theo một lãnh đạo cấp vụ của Ngân hàng Nhà nước, tính đến 24/9, tăng trưởng tín dụng ở mức 6,7%. Dù tăng thấp và nhiều ý kiến đòi nới lỏng điều kiện vay nhưng có vẻ như nhà điều hành đã biết lảng tránh vòng luẩn quẩn “thắt chặt – thả lỏng” thường thấy ở mấy năm trước.
Ba năm trước, cứ sau một thời gian ngắn thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát, Ngân hàng Nhà nước gần như lập tức nới lỏng; thậm chí, đầu năm phanh gấp thì gần giữa năm đã thấy cho trôi tự do.
Thay một quan niệm không dễ
Ở thời điểm đó, theo sau mỗi chu kỳ như nói trên, dường như Ngân hàng Nhà nước chỉ chú ý và tập trung đẩy tiền ra để hạ lãi suất xuống. Đây luôn được coi là giải pháp gần như duy nhất để cứu sản xuất sau thời gian đình trệ do thắt chặt tiền tệ, thay vì chú ý đến sự phân bổ của nguồn lực tín dụng ở những lĩnh vực căn cơ cũng như điều kiện tiếp cận tín dụng chuẩn mực.
Thế nên, như đứa bé khóc vòi vĩnh sẽ nín thinh khi được mẹ cho bú; những tiếng kêu “khó vay vốn”, “ngân hàng đòi tài sản bảo đảm” ở thời điểm đó vì thế mà ít ỉ eo.
Ba năm gần đây, Ngân hàng Nhà nước thực hiện cuộc đại phẫu toàn hệ thống. Với quan điểm “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, nhà điều hành gần như làm ngơ trước cảnh báo “đổ vỡ hệ thống” để một lúc, dẹp luôn 9 ngân hàng yếu kém (đến nay đã xử lý được 8) nhưng không dùng đến ngân sách.
Từ đó, Ngân hàng Nhà nước thu về không ít thành quả mà trước hết, 9 ngân hàng nói trên không thể làm cái việc ngược đời là “ngân hàng bé dâng cao lãi suất để tranh cướp vốn của ngân hàng lớn” và đi cùng là thông điệp: “Sẽ chơi sát ván với những ngân hàng đùa bỡn với kỷ cương”.
Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước không ngần ngại công bố toàn bộ số liệu nợ xấu của hệ thống, dọn đường cho việc ra đời hai đề án xử lý nợ xấu, với nhiều giải pháp trong đó có thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) và tái cấu trúc hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015.
Có một điểm đáng chú ý ở đây, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu bất cứ ngân hàng nào có tỷ lệ nợ xấu trên 3% là phải bán về VAMC và chỉ dừng lại khi nào nợ xấu dừng ở dưới ngưỡng nói trên.
Video đang HOT
Song song, Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu tổ chức tín dụng hàng năm trích 20% giá trị trái phiếu nhận được từ VAMC sau khi bán nợ xấu từ nguồn dự phòng rủi ro để tự xử lý nợ xấu; đồng thời, với số nợ xấu chưa bán cho VAMC, Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng phải lấy lợi nhuận để xử lý.
Vì lẽ này, gần đây, cụm từ “ngân hàng lãi khủng” đã thưa thớt và vắng hẳn trong các bản tin truyền thông của ngân hàng. Làm như vậy, ít nhất trong ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước tạm thời tránh được tiếng “lấy tiền thuế của dân để xử lý hậu quả do lòng tham của ông chủ ngân hàng” dồn dập vang lên ở nghị trường.
Còn tất nhiên, để có thể xử lý được dứt điểm cục nợ xấu, vẫn còn nhiều bàn cãi xung quanh câu chuyện tiền thực và xuất xứ nguồn tiền. Nhưng cái được lớn nhất là các ngân hàng đã tự quay về với chuẩn mực quản trị nghiêm túc, hiện tượng vung tín dụng bừa bãi vào các tài sản rủi ro đã bị ngăn lại đáng kể.
Không phải bỗng dưng, tại cuộc gặp mặt giữa Ngân hàng Nhà nước và Hội Doanh nghiệp trẻ ngày 23/9, trước ý muốn nới lỏng điều kiện vay, gia tăng cho vay tín chấp của ông Nguyễn Thành Phương, Tổng giám đốc Kangaroo, ông Phạm Quang Dũng, Phó tổng giám đốc Vietcombank thẳng thắn: “Tiền ngân hàng là tiền của dân. Chưa hiểu gì về doanh nghiệp mà cho vay tín chấp thì cầm chắc mất tiền. Doanh nghiệp đưa tiền cho nhau còn kèm theo ràng buộc trả nợ thì với ngân hàng cũng vậy thôi”.
Được gì khi “đổi ngắn lấy dài”?
Có một yếu tố khá bất lợi cho Ngân hàng Nhà nước là quá trình siết chặt kỷ cương tín dụng lại diễn ra đúng vào thời điểm kinh tế trong và ngoài nước suy thoái, tổng cầu suy giảm trầm trọng. Trong khi đó, sự bê trễ trong quản lý việc thành lập doanh nghiệp đã tạo ra đội ngũ đông đảo số lượng nhưng tiềm lực tài chính yếu; vốn chủ sở hữu thấp, tồn tại chủ yếu dựa vào vốn vay nhưng lại sử dụng không đúng với ngành nghề sở trường.
Thế nên, không có gì lạ, suốt từ hai năm nay, gần như ở đâu cũng kêu “khó tiếp cận vốn”, “ngân hàng đòi tài sản thế chấp”, “tại sao nói cho vay tín chấp mà không làm”…
Trước những áp lực này, hai năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức các chuyến đi tiếp xúc thực tế với doanh nghiệp và lãnh đạo chính quyền để thu thập thông tin, thậm chí, làm trọng tài phân xử luôn những mắc mớ.
Tuy nhiên, cũng từ những chuyến đi này, đã phơi bày một thực tế không mấy vui vẻ: một bộ phận lớn doanh nghiệp vẫn quen coi vốn ngân hàng như “của chùa”.
Kể cả khi lâm vào tình trạng giá trị doanh nghiệp bị âm, nợ nần chồng chất, thị trường không có nhưng vẫn muốn vay đầu tư. Nói không với nới lỏng và tín dụng dễ dãi nhưng bù lại, chính sách đang cố hướng dòng vốn này vào những lĩnh vực căn cơ hơn.
Theo thống kê, tỷ trọng dư nợ cho bất động sản khoảng 10%, cho vay tiêu dùng khoảng 6%, phần còn lại là sản xuất; trong đó, 5 lĩnh vực ưu tiên được chú trọng hơn cả.
Ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, năm 2007, Ngân hàng Nhà nước mua 7 tỷ USD mà lạm phát vọt lên 23%; từ 2011 đến nay, Ngân hàng Nhà nước mua trên 30 tỷ USD nhưng CPI bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân 2011 và 2013 tăng 6,6% so với 2012. Năm nay, CPI chắc chỉ trên 5%.
Cùng đó, GDP 2013 tăng 5,42% nhưng tín dụng chỉ tăng 8,83%. 6 tháng đầu 2014, tín dụng tăng chưa đến 5% nhưng GDP tăng 5,18%.
“Hiện nay, cầu thị trường đang thấp, doanh nghiệp phải cẩn trọng trong đầu tư. Phải thấy nguy cơ lạm phát vẫn hiện hữu, dù tháng này, CPI ở Tp.HCM là 1%, Hà Nội 0,5% nhưng chưa phải thời điểm mùa vụ. Dù với bất cứ giá nào thì bảo vệ các yếu tố vĩ mô, nhất là lạm phát phải đưa lên hàng đầu. Chúng tôi đang phải căng như dây đàn, tay trái thả ra đồng nào là tay phải tính chuyện thu về đồng đó. Vĩ mô có ổn định thì doanh nghiệp mới tính kế làm ăn lâu dài được”, ông Bình nói.
Theo Nguyễn Hoài
Vneconomy
Lương 5,4 triệu, ngàn nhân viên Bảo hiểm xã hội bỏ việc?
Lương của Bảo hiểm xã hội gấp 1,8 lần so với chế độ tiền lương cán bộ công chức nhưng nhiều người vẫn bỏ việc vì chế thu nhập thấp. Điều này thật khó hiểu?.
Lương đặc thù, cao gần gấp đôi
Nhân góp ý về Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi tại hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách vừa qua, nhiều đại biểu Quốc hội đã phản đối mạnh mẽ mức lương hiện nay của ngành này, cho rằng là quá cao, không xứng đáng.
Theo Quyết định của Thủ tướng ngày 7/9/2012, cơ chế thí điểm tiền lương cho cán bộ viên chức ngành bảo hiểm xã hội đã được phê duyệt, triển khai đến năm 2015. Theo đó, cán bộ nhân viên ngành này được hưởng mức chi tiền lương gấp 1,8 lần so với chế độ tiền lương cán bộ công chức, viên chức hiện nay. Nguồn chi lấy từ lợi nhuận đầu tư của Quỹ bảo hiểm xã hội.
Mỗi nhân viên bảo hểm phục vụ 3.380 người.
Theo nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị, cần phải khống chế ngay việc chi tiền lương của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, vì cơ quan này làm việc chưa hiệu quả. Chẳng hạn như số nợ bảo hiểm xã hội vẫn đang tăng lên, hoạt động đầu tư của Quỹ bảo hiểm xã hộị chỉ đạt lợi nhuận thấp, thậm chí, nếu so với lạm phát thì coi như thâm vào vốn, theo lời đại biểu Nguyễn Trung Thu.
Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội đánh giá rằng, bảo hiểm xã hội không phải mất nhiều công sức đầu tư, hoạt động không có gì đặc thù nên mức lương gấp 1,8 lần so với lương công chức là phi lý. Thậm chí, đại biểu Đặng Thị Kim Chi còn chỉ trích cơ quan này đang làm chơi, ăn thật.
Việc nhiều, lương thấp?
Trao đổi hôm hôm 12/9, ông Đỗ Văn Sinh, Phó Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam nói rằng, mức lương hiện nay trong ngành không cao như nhiều người tưởng.
"Kể cả khi đã được tăng gấp 1,8 lần lương công chức thì bình quân thu nhập của cán bộ chúng tôi cũng chỉ khoảng 5,4 triệu đồng/tháng thôi", ông cho hay.
Ông Sinh cho biết, hiện nay với 63 triệu người tham gia bảo hiểm thì mỗi 1 cán bộ ngành này phải phục vụ 3.380 người, đảm bảo doanh số mỗi năm thu chi là 20,551 tỷ. Con số này gấp đôi ở ngành thuế.
"Một cán bộ thuế chỉ phải tập trung lo phần thu đúng, thu đủ, nhưng một cán bộ nhân viên bảo hiểm xã hội, sẽ phải lo cả phần chi trả bảo hiểm, với việc trả lương hưu ở nhiều địa phương thì còn phải đến tận nơi, vì đối tượng là người già", một chuyên viên của cơ quan này phân tích.
Khối lượng công việc ngày càng gia tăng, kể từ khi 2 Luật Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế đi vào cuộc sống. Nếu giữ mức lương thấp như trước kia thì sẽ không khuyến khích được các cán bộ viên chức trong ngành đảm bảo nhiệm vụ thu, chi. Nhất là khi ngành này đang chịu sức ép phải với số nợ lên tới 11.500 tỷ đồng nợ bảo hiểm xã hội, trong khi, không có thẩm quyền thanh tra, không có công cụ pháp lý để đòi nợ hiệu quả.
Ông Sinh cho biết, trước khi Thủ tướng chấp thuận cơ chế thí điểm này thì việc xin tăng lương như trên đều đã nhận được sự đồng thuận của cả Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ Tài chính và các Uỷ ban chuyên trách của Quốc hội.
Theo báo cáo trước đó của hai Bộ trên, mức tăng chi tiền lương trên ở mức trung bình so với chế độ tiền lương, thu nhập ở các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay.
Tại thời điểm năm 2011, cơ chế tiền lương cho cán bộ ngành bảo hiểm xã hội được cho là lạc hậu so với yêu cầu thực tế. Ví dụ như từ năm 2008, cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải bổ sung thêm nhiệm vụ thu, chi, quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, yêu cầu giám định chi phí khám chữa bệnh tại tất cả các cơ sở khám bệnh từ cấp trạm y tế, xã, phường. Tại các thành phố lớn, tỉnh đông đối tượng thì các cán bộ ngành này thường xuyên phải làm đêm, thêm giờ, áp lực công việc lớn.
Trong khi đó, bình quân tiền lương ngành này thấp, ít có cơ hội được tăng thu nhập. Ví dụ, năm 2010, tiền lương bình quân của cán bộ ngành bảo hiểm xã hội là 2,2 triệu đồng/tháng, thu nhập bình quân là 3,9 triệu đồng/tháng. Năm 2011, tiền lương tăng lên là 2,7 triệu đồng/tháng và thu nhập là 4,8 triệu đồng/tháng.
Cán bộ ngành này được tăng thu nhập từ nguồn tiết kiệm chi phí quản lý, nhưng nguồn kinh phí giao cho Bảo hiểm xã hội rất hạn hẹp. Tính trung bình, nếu phấn đấu tiết kiệm hàng năm thì bình quân thu nhập cán bộ ngành này cũng chỉ được tăng 0,7 lần, cá biệt đối đa tăng 0,8 lần quỹ lương nhưng cũng không ổn định.
Vì lương thấp nên trong khoảng giai đoạn 2007 đến 2011, đã có 1.353 người xin ra khỏi ngành
Theo Phạm Huyền
VEF
Nước Mỹ chính thức trong tình trạng chiến tranh với IS Chính phủ Mỹ ngày 12/9 đã chính thức tuyên bố đang trong tình trạng chiến tranh với nhóm phiến quân nhà nước Hồi giáo IS, và khẳng định sẽ tiêu diệt tổ chức này như đang làm với al-Qaeda. Mỹ sẽ tiêu diệt IS như đang tiêu diệt tổ chức khủng bố al-Qaeda Trong một loạt các cuộc phỏng vấn trên truyền hình...