Thiên tai trong năm 2022 diễn biến phức tạp, khốc liệt và khó dự đoán hơn năm 2021
Theo Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng chống thiên tai, tính đến ngày 31/5, Việt Nam đã chịu ảnh của 49 trận mưa lớn; 15 trận mưa dông, lốc, sét; 13 vụ sạt lở bờ sông; 17 trận động đất.
Một đoạn đường thuộc xóm Hoàng Gia, xã Nam Hòa, huyện Đồng Hỷ, bị lũ cuốn khiến nhiều hộ dân bị cô lập hoàn toàn, ngày 31/5/2022. Ảnh: Thu Hằng/TTXVN
Điển hình, từ ngày 10/5 đến sáng 15/5, tại khu vực miền núi phía Bắc như: Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên đã xảy ra mưa lớn từ 100-250mm, một số trạm có mưa rất lớn như: Đảo Cái Chiên (Quảng Ninh) 304mm, Dương Huy (Quảng Ninh) 303mm, Cẩm Phả (Quảng Ninh) 299mm, Lộc Bình (Lạng Sơn) 268mm, Thượng Quan (Bắc Kạn) 266mm, Đình Cả (Thái Nguyên) 237mm, Bình Liêu (Bắc Giang) 223mm.
Mưa lớn tập trung trong ngày 10/5 đã gây lũ trên thượng lưu các sông suối, ngập lụt ven sông, sạt lở đất mái dốc, đường giao thông tại các địa phương, trong đó mực nước sông trên địa bàn các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang ở mức báo động 2, một số sông trên mức báo động 3.
Từ ngày 22-24/5, từ khu vực Bắc Bộ đến Nghệ An có mưa 100-300mm, riêng các tỉnh, thành phố Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Hòa Bình, Hà Nội, Thanh Hóa có mưa rất lớn từ 300-550mm. Đặc biệt, tại Tam Đảo (Vĩnh Phúc) mưa 925mm, tính riêng ngày 23/5 mưa 464 mm là lượng mưa ngày lớn nhất trong 60 năm qua; Quân Chu (Thái Nguyên) 675mm; Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) 505mm; Kiến Thiết (Tuyên Quang) 540mm; Việt Quang (Hà Giang) 542mm.
Mưa lớn đã gây ngập lụt cục bộ tại nhiều khu vực trũng thấp, sạt lở một số nhà dân, ách tắc đường giao thông, đặc biệt ngập úng tại các đô thị như Hà Nội, Vĩnh Yên và Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Bắc Ninh (Bắc Ninh).
Trong các ngày 29/5 đến sáng 31/5, thành phố Hà Nội và tỉnh Thái Nguyên đã có mưa cường suất rất lớn, gây ngập lụt nghiêm trọng khu vực nội thành Hà Nội, cụ thể: Láng (Hà Nội) 132mm/2 giờ (từ 14-16 giờ ngày 29/5), Nam Hòa (Thái Nguyên) 302mm/5 giờ (từ 20 giờ ngày 30/5 đến 1 giờ 31/5).
Thiên tai trong tháng 5/2022 đã làm 35 người chết, mất tích, 15 người bị thương; 24 nhà sập, 738 nhà hư hỏng, tốc mái, 3.078 nhà ngập; 55.725 ha lúa, hoa màu, 2.375 ha cây trồng khác thiệt hại; 49.434 con gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi; 150 lồng bè và hơn 1.210 ha nuôi trồng thủy sản thiệt hại. Ngoài ra, thiên tai còn làm nhiều kè, kênh mương, bờ sông, bờ biển sạt lở… Thiệt hại về kinh tế ước tính khoảng 483 tỷ đồng.
Video đang HOT
Thiên tai từ đầu năm 2022 đến nay đã làm 61 người chết, mất tích; 35 người bị thương; 121 nhà sập; 2.372 nhà hư hỏng, tốc mái; 166.452ha lúa, hoa màu ngập úng, thiệt hại; 17.439 con gia súc, 42.293 con gia cầm bị chết; 299 ghe, thuyền bị chìm, hư hỏng; 3.601 ha diện tích nuôi trồng thủy sản, 8.723 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại; 26 cầu tạm bị cuốn trôi; sạt lở 23 km đường giao thông; 463.330m3 đất đá sạt lở. Thiệt hại về kinh tế ước khoảng 3.875 tỷ đồng.
Cũng theo thông tin từ Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng chống thiên tai, từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã xảy ra 70 trận mưa lớn, 74 trận dông lốc, 24 vụ sạt lở bờ sông, 107 trận động đất và 2 đợt rét đậm, rét hại.
Nhận định về diễn biến thời tiết trong thời gian tới, Trưởng phòng Dự báo thời tiết, Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia Trần Quang Năng cho biết, trong năm 2022, do ảnh hưởng của La Nina (Hài Đồng nữ – là sự xuất hiện lớp nước biển bề mặt ở khu vực xích đạo Thái Bình Dương) nên nhiều nguy cơ thiên tai sẽ diễn ra phức tạp, khốc liệt và khó dự đoán hơn năm 2021, đặc biệt là mùa mưa bão sắp tới. Mưa lớn có thể tập trung nhiều ở những tháng cuối năm; nhiều cơn bão có khả năng có quỹ đạo và cường độ bất thường.
“Thời điểm này đang là thời kỳ bước vào mùa mưa ở các tỉnh, thành phố khu vực Bắc Bộ, do vậy trong thời gian tháng 6-7/2022, mưa lớn ở các tỉnh, thành phố khu vực Bắc Bộ vẫn tiếp diễn. Chính quyền các cấp và người dân cần tiếp tục đề phòng nguy cơ mưa lũ, sạt lở đất, lũ quét và lưu ý thời kỳ cao điểm mưa bão đang đến nên phải có những biện pháp chủ động trong ứng phó ngay từ bây giờ”, ông Trần Quang Năng nhấn mạnh.
Để tiếp tục khắc phục và chủ động ứng phó với thiên tai trong thời gian tới, Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai đề nghị các tỉnh, thành phố thực hiện nghiêm Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 1/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, trong đó tập trung vào việc thực hiện nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai, xác định công tác cứu hộ là “nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình” và rà soát phương án phòng, chống lũ, giảm ngập lụt ở hạ du.
Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai chủ trì, phối hợp với Ủy ban quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tổ chức kiểm tra, đánh giá công tác chuẩn bị phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trước mùa mưa lũ của các ngành, địa phương; đánh giá công tác phòng, chống thiên tai cấp tỉnh thông qua Bộ chỉ số.
Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn chỉ đạo nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo lực lượng cứu hộ, cứu nạn; kiểm tra công tác phòng, chống cháy nổ, cháy rừng, thực hiện quy chế ứng phó sự cố tràn dầu, sự cố chất thải và tìm kiếm cứu nạn của một số địa phương; chỉ đạo ứng trực, kịp thời điều động lực lượng, phương tiện của các Bộ, ngành và địa phương ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương chuyển đổi mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp để chủ động thích ứng, giảm thiệt hại do thiên tai, gắn xây dựng cộng đồng an toàn trước thiên tai với xây dựng nông thôn mới bền vững; đẩy nhanh tiến độ đầu tư, nâng cấp, khắc phục sự cố đê điều, công trình phòng, chống thiên tai đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ; xây dựng, triển khai phương án bảo vệ trọng điểm đê điều, hồ đập; rà soát phương án phòng, chống lũ, giảm ngập lụt ở hạ du cho một số lưu vực sông lớn tại khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên; phối hợp với các ngành, địa phương triển khai kiểm soát an toàn thiên tai, xử lý vi phạm lấn chiếm lòng dẫn ảnh hưởng đến thoát lũ, gia tăng ngập lụt nhất là các lưu vực sông miền Trung và đồng bằng Bắc Bộ.
Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức theo dõi, dự báo, cảnh báo, kịp thời cung cấp thông tin về tình hình thiên tai phục vụ công tác chỉ đạo, ứng phó; tiếp tục nâng cao chất lượng dự báo thiên tai bảo đảm kịp thời, chính xác hơn…
Cùng với đó, Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai yêu cầu các tỉnh, thành phố khu vực Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ theo dõi chặt chẽ các bản tin dự báo, cảnh báo, thông tin kịp thời cho các cấp chính quyền, người dân để chủ động phòng tránh lốc, sét, mưa đá, gió giật mạnh và lũ quét, sạt lở đất, ngập úng.
Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long theo dõi sát tình hình dòng chảy thượng nguồn sông Mê Công để chủ động ứng phó và điều chỉnh sản xuất phù hợp, đồng thời tổ chức trực ban nghiêm túc, thường xuyên báo cáo về Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai và Văn phòng Ủy ban Quốc gia Ứng phó sự cố thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn.
Huy động hơn 17.400 tỷ đồng chống sạt lở bờ biển, bờ sông
Giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng đến năm 2030, tỉnh Kiên Giang có kế hoạch huy động nguồn lực đầu tư 200 công trình phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông trên địa bàn; trong đó phòng, chống sạt lở bờ biển 18 công trình, bờ sông 182 công trình, với tổng nhu cầu vốn hơn 17.400 tỷ đồng.
Kè chống sạt lở bờ biển khu vực Mũi Rãnh, huyện An Biên (Kiên Giang) đã xây dựng hoàn thành.
Theo đó, giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh triển khai thực hiện 18 công trình kè phòng, chống sạt lở bờ biển, tổng chiều dài hơn 71 km, kinh phí 2.450 tỷ đồng và 72 công trình kè bờ sông, tổng chiều dài trên 480 km, kinh phí 7.958 tỷ đồng.
Tiếp đến, giai đoạn 2026 - 2030, tỉnh tiếp tục thực hiện 110 công trình kè phòng, chống sạt lở bờ sông, tổng chiều dài hơn 586 km, kinh phí khoảng 6.937 tỷ đồng.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang Lê Quốc Anh nhấn mạnh, tỉnh chủ động quản lý, phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông, tạo điều kiện ổn định và phát triển kinh tế - xã hội khu vực ven biển, ven sông. Từ đó, góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng, an toàn tính mạng, tài sản và sản xuất của nhân dân.
Về triển khai phòng, chống sạt lở, tỉnh đã thực hiện đồng bộ, xử lý cấp bách trước mắt và căn cơ lâu dài, kết hợp giải pháp công trình và phi công trình, không làm tăng nguy cơ sạt lở gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn, phòng hộ ven biển, tạo sinh kế cho người dân.
Tỉnh phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên đảm bảo an toàn hệ thống đê điều, khu dân cư tập trung, cơ sở hạ tầng quan trọng, chống suy thoái rừng phòng hộ ven biển tại những khu vực xói lở nghiêm trọng không thể phục hồi.
Ngành chức năng tỉnh phối hợp với các địa phương tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân về phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông nhằm giảm nguy cơ sạt lở, rủi ro, thiệt hại do sạt lở. Ngành chức năng điều tra cơ bản xây dựng cơ sở dữ liệu liên quan đến sạt lở bờ biển, bờ sông trên địa bàn tỉnh, đồng thời tăng cường quản lý chặt chẽ các hoạt động ven sông, ven biển ảnh hưởng đến sạt lở.
Ngành chức năng thực hiện quan trắc, dự báo, kịp thời cảnh báo nguy cơ sạt lở bờ biển, bờ sông, ứng dụng khoa học công nghệ, vật liệu mới phù hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực để phòng, chống sạt lở bờ biển, bờ sông; xây dựng công trình tại các khu vực trọng điểm để phòng, chống sạt lở, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản nhân dân và công trình hạ tầng thiết yếu.
Theo lãnh đạo tỉnh Kiên Giang, giải pháp cấp bách trước mắt tổ chức cắm biển cảnh báo tại những khu vực bị sạt lở và có nguy cơ cao xảy ra sạt lở; kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác đất, cát trên sông và vùng ven biển, đảo, khắc phục tình trạng mất cân bằng bùn cát để hạn chế nguy cơ sạt lở.
Tỉnh chỉ đạo các địa phương tổ chức di dời khẩn cấp các hộ dân ra khỏi khu vực bờ biển, bờ sông bị sạt lở, bố trí tái định cư theo các hình thức tái định cư xen ghép hoặc xây dựng khu tái định cư tập trung phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Tỉnh tập trung xây dựng các công trình khắc phục sự cố sạt lở ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn dân cư, cơ sở hạ tầng quan trọng ven sông, ven biển và rừng phòng hộ ven biển, nhất là rừng ngập mặn bảo vệ trực tiếp đê biển.
Cùng đó, bên cạnh diện tích rừng ngập mặn được trồng mới và phục hồi thuộc các dự án xây dựng kè phá sóng, gây bồi, tạo bãi ven biển Tây, tỉnh Kiên Giang đã và đang triển khai thực hiện trồng rừng trong các dự án xây dựng kè hơn 644 ha.
Ban Quản lý rừng Kiên Giang dự kiến kế hoạch trồng rừng bãi bồi rừng phòng hộ ven biển, bảo vệ cây mới trồng giai đoạn 2022 - 2025 trong kè phá sóng, gây bồi, tạo bãi diện tích 63 ha rừng hỗn giao với cây mắm, bần... ở bãi bồi ven biển huyện An Biên với kinh phí đầu tư hơn 20 tỷ đồng.
Sóc Trăng: Tình trạng sạt lở tại Kế Sách ngày càng diễn biến phức tạp Ngày 27/5, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi Sóc Trăng Phạm Tấn Đạo cho biết, đơn vị vừa phối hợp với Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Kế Sách khảo sát và nắm tình hình tại các điểm sạt lở vừa xuất hiện trên địa bàn huyện. Đồng thời, sẽ sớm đề xuất, đưa ra giải pháp nhằm giảm...