Thêm cơ hội để mở rộng thị trường vốn
Dẫn vốn qua kênh chứng khoán đã có những bước phát triển trong những năm gần đây, song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là việc thu hút vốn từ nhà đầu tư nước ngoài. Nếu được cải thiện, sự phát triển của thị trường này sẽ góp phần đáng kể thúc đẩy sự lớn mạnh của các DN Việt trong sản xuất kinh doanh bởi nhu cầu vốn của DN là rất lớn.
Cần bổ sung các sản phẩm mới trên thị trường chứng khoán để hút vốn ngoại cho sản xuất kinh doanh Ảnh: ST
Nhiều khó khăn trong hút vốn ngoại
Thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển nhanh và tương đối bền vững, mỗi năm, tăng trưởng bình quân 25%. Nếu như năm 2010, giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán chiếm 52,5% GDP thì đến năm 2018, quy mô thị trường vốn là 111% GDP.
Tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân được tổ chức đầu tháng 5/2019, ông Trần Xuân Hà, Thứ trưởng Bộ Tài chính cho biết, thị trường chứng khoán với vai trò là kênh huy động vốn trung – dài hạn cho đầu tư phát triển đã có sự phát triển đáng ghi nhận. Cuối năm 2018, giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán đạt 111,2% GDP, trong đó thị trường cổ phiếu đạt 71,9% GDP, thị trường trái phiếu đạt hơn 39% GDP. Quy mô thị trường chứng khoán đã cao hơn so với mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển tài chính và lộ trình phát triển thị trường trái phiếu đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Liên quan đến vấn đề thu hút nguồn vốn ngoại trên thị trường chứng khoán, ông Phạm Hồng Sơn, Phó Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, thời gian qua đã có nhiều giải pháp để nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận thị trường. Theo đó, tất cả cá nhân, tổ chức là nhà đầu tư nước ngoài đều được mở tài khoản trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ năm 2016, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán mở dịch vụ trực tuyến, việc cấp tài khoản cho nhà đầu tư thực hiện trong thời gian 1 ngày kể từ khi nhận đầy đủ hồ sơ. Bên cạnh đó, để giảm chênh lệch với các thị trường khu vực, cơ quan chức năng cũng đã cung cấp trang thông tin bằng tiếng Anh để thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, ông Sơn cũng nhấn mạnh, có một số vướng mắc khiến thu hút nhà đầu tư nước ngoài chưa được như mong muốn, vì vậy hiện cơ quan này đang xây dựng dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi), văn bản hướng dẫn thi hành để hoàn thiện chính sách, trong đó có chính sách để thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam
Theo bà Nguyễn Thị Việt Hà, Uỷ viên chuyên trách HĐQT, Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM (HOSE), sau khi Nghị định 60/2015/NĐ-CP quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán được ban hành, hiện trên sàn HOSE chỉ có 25 công ty có trần sở hữu khối ngoại đạt 100%, có 317 công ty có trần sở hữu khối ngoại đạt 49%, DN có trần sở hữu khối ngoại dưới 51% chỉ còn 23 DN và có 8 DN có trần sở hữu khối ngoại là 30%. Những con số này cho thấy tỷ lệ sở hữu vốn ngoại của DN vẫn chưa được như kỳ vọng. Lý giải cho việc khó khăn trong nâng trần sở hữu khối ngoại lên 100%, đại diện HOSE cho biết do khó khăn trong việc công ty niêm yết muốn nới room phải rà soát ngành nghề có điều kiện. Bên cạnh đó, khi DN nới room lên trên 51% được xem là DN có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi đó, một số ngành nghề nhất định (như y tế, công nghệ thông tin…) sẽ bị hạn chế. Chưa kể, một số DN nội muốn duy trì tỷ lệ sở hữu trong nước.
Tạo khung pháp lý cho sản phẩm mới
Video đang HOT
Mặc dù vậy, theo đánh giá, cơ hội để mở rộng thị trường, hút vốn ngoại qua kênh chứng khoán tại Việt Nam là không nhỏ, bởi các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến thị trường Việt Nam. Để thúc đẩy vấn đề này, đại diện HOSE cho biết đơn vị này đang nghiên cứu triển khai các sản phẩm mới trong đó có cổ phiếu không có quyền niêm yết và sản phẩm NVDR (tạm gọi là chứng chỉ ký quỹ không có quyền biểu quyết). Liên quan đến vấn đề này, ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, hiện nay, có rất nhiều sản phẩm được giao dịch trên thị trường chứng khoán ở các nước như Thái Lan, Singapore, Nhật Bản…, nhưng lại không được giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều này khiến thị trường chứng khoán Việt Nam thiếu công cụ, sự hấp dẫn, ảnh hưởng đến việc huy động vốn vào sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết.
Theo đó, chuyên gia Phan Đức Hiếu cho biết, hai sản phẩm mới gồm cổ phiếu không có quyền biểu quyết và chứng chỉ ký quỹ không có quyền biểu quyết (NVDR) là hai sản phẩm mà các chuyên gia kiến nghị đưa vào trong sửa đổi Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán lần này. “Công cụ này sẽ giúp đa dạng sự lựa chọn, hấp dẫn nhà đầu tư, đem lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư và giúp DN có được vốn để kinh doanh, thúc đẩy DN phát triển”, ông Hiếu nói.
Theo các chuyên gia, việc hạn chế nhất định đối với nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) diễn ra ở rất nhiều quốc gia. Đa số các nước lo ngại NĐTNN có toàn quyền điều hành DN theo chiến lược, mong muốn và mục tiêu của họ dẫn đến có thể can thiệp theo ý muốn vào nền kinh tế và trái với chủ trương, mong muốn của Chính phủ. Vì vậy, Chính phủ các quốc gia đặt ra vấn đề hạn chế NĐTNN chỉ được sở hữu thiểu số.
Tuy nhiên, ông Phan Đức Hiếu cho rằng, không phải mọi nhà đầu tư đều mong muốn đầu tư tiền vào công ty để can thiệp và có ý định xấu. Có những nhà đầu tư chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, không có mâu thuẫn hay xung đột gì như lo lắng của Chính phủ. Theo đó, thị trường xuất hiện nhu cầu về một công cụ, sản phẩm có thể giúp bảo vệ mục tiêu quản lý của Nhà nước, mà vẫn thu hút dòng tiền đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế và công cụ NVDR hình thành nhằm giải quyết vấn đề giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Công cụ sẽ do một đơn vị tài chính hay công ty chứng khoán phát hành và giá trị của chứng chỉ phát hành đó không thay thế cổ phần, không có quyền biểu quyết vì không sở hữu cổ phần nên không tham gia vào hoạt động điều hành, quyết định, chiến lược của công ty, chỉ quy đổi tương đương về mặt lợi ích kinh tế. Các nhà đầu tư rót tiền mua chứng chỉ đó làm tăng thêm vốn cho công ty mà lại không bị hạn chế bởi mục tiêu quản lý của Nhà nước và cũng không ảnh hưởng mục tiêu ban đầu của việc giới hạn tỷ lệ sở hữu của NĐTNN.
Mặc dù rất ủng hộ việc đưa các sản phẩm mới này vào thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm thu hút thêm vốn ngoại cho những DN đã chạm trần room ngoại, song, các chuyên gia cũng lưu ý phải tạo ra khung pháp lý để công cụ đó được đưa vào và triển khai trên thực tế, giải quyết những vướng mắc khi triển khai công cụ mới này tại Việt Nam. Đơn cử, với công cụ NVDR thì tổ chức được phép phát hành công cụ này sẽ là ai: Là DN do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hay Sở Giao dịch Chứng khoán lập ra? Bên cạnh đó, xuất phát từ kinh nghiệm của các nước, cần có một giới hạn nhất định cho thử nghiệm, ví dụ chỉ cho phát hành tương đương 15% phần vốn vượt quá room ngoại và trước mắt chỉ niêm yết chứng chỉ đó tại thị trường Việt Nam, thay vì niêm yết chứng chỉ đó ở các thị trường chứng khoán khác để tạo thuận lợi cho việc huy động vốn…
Hoài Anh
Theo baohaiquan.vn
Hình thành kênh trái phiếu cho doanh nghiệp: Mục tiêu xa vời
Tại hội thảo chuyên đề Khơi thông dòng vốn trung, dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội diễn ra vào ngày 02/5 tại Hà Nội, chủ đề "Khơi thông tín dụng trung - dài hạn và thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam" đã thu hút nhiều sự quan tâm của các diễn giả và đại biểu.
Với vai trò điều phối phiên hiến kế, ông Cấn Văn Lực - chuyên gia kinh tế trưởng, Giám đốc Viện đào tạo và nghiên cứu BIDV đặt câu hỏi về sự mất cân bằng thị trường tín dụng và thị trường vốn. Trả lời câu hỏi này, ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thừa nhận sự mất cân đối giữa kênh cung ứng vốn ngân hàng và thị trường vốn còn rất bất cập. Tín dụng trung dài hạn chiếm tỷ trọng khá lớn khoảng 50,6% tổng dư nợ tín dụng. Thực trạng này đã và đang tạo sức ép và rủi ro rất lớn cho hệ thống tổ chức tín dụng.
Lý giải nguyên nhân của thực trạng này, ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa ra 3 lý do chính. Thứ nhất, phía doanh nghiệp chưa có báo cáo kế hoạch kinh doanh dài hạn, việc quen thói quen sử dụng vốn dài hạn và xây dựng các kế hoạch phát triển dài hạn. doanh nghiệp chưa có kế hoạch dẫn đến ảnh hưởng lâu dài.
Thứ hai, doanh nghiệp còn ngại công bố thông tin, báo cáo thông tin tài chính chưa được rõ ràng, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng. Thứ ba, chưa đáp ứng được điều kiện phát hành trái phiếu, thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp mang tính lâu dài, tính thanh khoản của trái phiếu chưa cao, chưa có các tổ chức xếp hạng tín dụng tạo điều kiện cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư... Thông tin chưa được minh bạch, công khai, chỉ tập trung vào trái phiếu chính phủ, bảo lãnh.
Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, giải pháp giải quyết nguyên nhân là rà soát, khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hiện đại hóa công nghệ thông tin, sớm hình thành công ty xếp hạng tín nghiệm đủ năng lực. Về phía doanh nghiệp cần nâng cao năng lực tài chính, quản trị điều hành, có kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, có lộ trình đủ lớn, tập trung vào phát triển vốn thông qua phát hành trái phiếu...
Đồng quan điểm với ông Sơn, ông Đỗ Ngọc Quỳnh - Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam nhận định, sự thay đổi của thị trường chứng khoán là tích cực, từ năng lực doanh nghiệp đến nhà đầu tư.
Toàn cảnh Phiên hiến kế về tài chính - Tín dụng. (Ảnh: VNE)
Tuy nhiên, ông cho rằng, việc hình thành kênh trái phiếu cho doanh nghiệp là mục tiêu xa vời. Lý giải cho nhận định này, ông Quỳnh cho biết, các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu phải đạt mực độ tín nhiệm nhất định cũng như trình độ phát triển tốt. Thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó đáp ứng yêu cầu này.
Một trong những điều kiện doanh nghiệp định hướng nhiều nhất là cơ chế phát hành. "Tư duy xây dựng luật trái phiếu dường như đang đi theo mô hình phát hành cổ phiếu. Việt Nam đang áp điều kiện quá chặt với doanh nghiệp", ông Quỳnh nói.
Theo ông, điều quan trọng nhất là phải minh bạch thông tin và cơ chế thoáng hơn để thị trường tự định hướng. Hiện nay, bộ Tài chính đang mong muốn tạo ra ít nhất 2 công ty để có sự cạnh tranh. Nhiều doanh nghiệp cũng mong muốn xếp hạng tín dụng nhưng quy mô thị trường còn có nhỏ.
Ông lấy dẫn chứng, Malaysia mất 20 năm để xây dựng văn hóa xếp hạng tín nhiệm, bất cứ công ty nào muốn phát hành trái phiếu đều phải xếp hạng tín nhiệm. Việt Nam cũng có thể học hỏi mô hình này.
Trong khi đó, ông Phạm Hồng Sơn - Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhấn mạnh, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp là thị trường mới, non trẻ. Các doanh nghiệp lấy tiền vay ngân hàng để phát triển nguồn vốn thì gặp nhiều rủi ro nên việc huy động vống qua chứng khoán có thể hạn chế điều này.
Về giải pháp, ông cho biết, Bộ Tài chính đang chỉ đạo để Sở Chứng khoán Hà Nội xây dựng cổng thông tin để các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Bộ cũng đệ trình Luật chứng khoán sửa đổi tạo ra khung pháp lý hoàn chỉnh.
Liên quan tới câu hỏi về việc phối hợp giữa các chính sách, ông Phạm Thanh Hà - Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước cho rằng: Đa số nguồn vốn là ngắn hạn, dư nợ tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, sự chuyển dịch từ tiền tệ sang thị trường vốn là tất yếu. Hiện, thị trường trái phiếu chính phủ phát triển mạnh mẽ, kiểm soát lạm phát. Hai năm trở lại đây, trái phiếu doanh nghiệp chuyển dịch tích cực.
Đối với tổ chức tín dụng, Ngân hàng nhà nước sẽ đưa ra quy định rõ ràng. Về lãi suất ưu tiên là 6,5%, thị trường tín dụng ngân hàng khác với thị trường vốn, nhất là khi phát hành trái phiếu. Số liệu thống kê, 18% số vốn dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo ông Đỗ Ngọc Quỳnh - Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam, xét về mục tiêu, kế hoạch phát triển hiện nay, các giải pháp, biện pháp rất rõ ràng và đúng đắn. Năm 2020 chúng ta đặt mục tiêu 7%, hiện nay đã giải quyết được 9,2 - 9,6%. Tuy nhiên, khâu thực thi chính sách đang có vấn đề, sự trao đổi với cơ quan nhà nước còn hơi chậm, việc giải quyết các vấn đề còn mất nhiều thời gian.
Do vậy, việc hình thành ủy ban làm việc liên bộ trong thị trường trái phiếu rất cần thiết. Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam dẫn chứng mô hình cơ quan liên bộ tại Indonesia, Malaysia giúp giải quyết các vấn đề kịp thời theo tháng.
Hội thảoKhơi thông dòng vốn trung, dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội là 1 trong 7 hội thảo chuyên đề được tổ chức vào sáng 02/5 trong khuôn khổ Diễn đàn kinh tế tư nhân Việt Nam 2019 diễn ra trong ngày 02 và 03/5 tại Hà Nội với chủ đề "Phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết 10-NQ-TW của Hội nghị TW 5 khóa XII và Nghị quyết 98-NQ/CP của Chính phủ do Chính phủ và Ban Kinh tế Trưng ương đồng chủ trì và chỉ đạo tổ chức.
Minh Thu
Theo doanhnghiepvn.vn
Phát triển TTCK dần thay thế tín dụng trung và dài hạn Phát triển thị trường chứng khoán là điều kiện tất yếu để nền kinh tế giảm dần lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng, đặc biệt là các nhu cầu vốn trung, dài hạn. Sáng 2/5, tại phiên hiến kế Vốn - Tài chính cho nền kinh tế trong khuôn khổ Diễn đà Kinh tế tư nhân Việt Nam 2019, Phó Thống đốc...