Thế tiến thoái lưỡng nan về năng lượng của Đông Nam Á
Với nền kinh tế phát triển nhanh chóng, dân số bùng nổ và đô thị hóa ngày càng tăng, Đông Nam Á đang chứng kiến nhu cầu năng lượng tăng mạnh.
Hệ thống điện gió. Ảnh: Pexels
Khu vực này đang thay đổi nhanh chóng và sự tăng trưởng đó đã biến nơi đây trở thành một trong những khu vực phát triển nhanh nhất thế giới.
Nhưng với sự tăng trưởng nhanh chóng này, một thách thức lớn xuất hiện: Làm thế nào Đông Nam Á có thể đáp ứng được nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của mình trong khi vẫn bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai?
Khu vực này cần nhiều năng lượng hơn để theo kịp sự phát triển của mình, nhưng cách thức sản xuất năng lượng truyền thống, chủ yếu thông qua nhiên liệu hóa thạch như than và khí đốt tự nhiên, không bền vững về lâu dài.
Khu vực này cần tìm cách cân bằng tăng trưởng kinh tế với nhu cầu cấp thiết về năng lượng sạch, tái tạo.
Tình hình năng lượng khu vực
Đông Nam Á bao gồm 11 quốc gia với dân số khoảng hơn 700 triệu người. Tuy nhiên, sản lượng năng lượng của khu vực này vẫn chủ yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch.
Than, dầu và khí đốt tự nhiên chiếm phần lớn năng lượng được sử dụng ở Đông Nam Á. Indonesia, quốc gia xuất khẩu than lớn nhất thế giới, phụ thuộc rất nhiều vào các nhà máy điện chạy bằng than để đáp ứng nhu cầu năng lượng của mình. Các quốc gia như Malaysia và Thái Lan cũng sử dụng một lượng lớn khí đốt tự nhiên để sản xuất điện.
Nhưng những loại nhiên liệu này phải trả giá đắt về mặt môi trường và Đông Nam Á đang cảm nhận được tác động của biến đổi khí hậu bao gồm mực nước biển dâng cao, bão thường xuyên hơn và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt đang ảnh hưởng đến cộng đồng, đặc biệt là ở các vùng ven biển trũng thấp.
Đẩy mạnh năng lượng sạch
Đông Nam Á đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng trong việc giảm lượng khí thải carbon và chống biến đổi khí hậu.
Là một phần của Thỏa thuận Paris, các quốc gia trong khu vực đã cam kết giảm lượng khí thải carbon và hướng tới các nguồn năng lượng sạch hơn.
Vấn đề lớn nhất là than. Mặc dù than được biết là có hại cho môi trường, nhưng than vẫn được sử dụng rộng rãi vì nó rẻ và dễ kiếm. Indonesia vẫn tiếp tục dựa vào than như một nguồn năng lượng chính. Nhưng quốc gia này không đơn độc vì nhiều quốc gia Đông Nam Á vẫn sử dụng than để sản xuất năng lượng.
Video đang HOT
Tuy nhiên, ở Đông Nam Á, ô nhiễm không khí do đốt than là vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Các thành phố ở các quốc gia như Thái Lan, Việt Nam và Indonesia thường phải chịu mức độ ô nhiễm không khí cao, dẫn đến các bệnh về đường hô hấp và các vấn đề sức khỏe khác.
Công nhân vận hành tại nhà máy nhiệt điện Thủ Đức, Việt Nam. Ảnh: Huy Hùng – TTXVN
Tiếp cận năng lượng là một vấn đề khác.
Nhiều người dân ở các vùng nông thôn Đông Nam Á vẫn thiếu điện đáng tin cậy. Theo Cơ quan năng lượng Quốc tế, hơn 50 triệu người ở Đông Nam Á không có điện.
Đây là một thách thức đáng kể, đặc biệt là khi các quốc gia đang nỗ lực cải thiện mức sống của người dân. Do đó, các chính phủ thường chuyển sang sử dụng nhiên liệu hóa thạch giá rẻ như than để cung cấp điện cho các khu vực này, nhưng điều này chỉ làm tăng sự phụ thuộc của họ vào các nguồn năng lượng không tái tạo.
Năng lượng tái tạo : Giải pháp cho Đông Nam Á ?
Tin tốt là Đông Nam Á có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo và thực sự đang bắt đầu chuyển dịch sang các nguồn năng lượng sạch hơn, xanh hơn.
Năng lượng Mặt trời
Trong số tất cả các lựa chọn năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời có tiềm năng nhất trong khu vực.
Đông Nam Á có nhiều ánh nắng mặt trời quanh năm, khiến nơi đây trở nên lý tưởng cho sản xuất năng lượng mặt trời. Do đó, và nhờ các ưu đãi của chính phủ, một số quốc gia đang chứng kiến công suất năng lượng mặt trời tăng nhanh trong những năm gần đây.
Việt Nam, Philippines, Thái Lan và Indonesia đều đang đạt được tiến bộ trong việc áp dụng năng lượng mặt trời.
Gió, thủy điện và địa nhiệt
Ngoài năng lượng mặt trời, Đông Nam Á còn có các nguồn năng lượng tái tạo khác có thể giúp đáp ứng nhu cầu năng lượng của mình. Ví dụ, năng lượng gió có tiềm năng lớn ở các quốc gia như Việt Nam và Philippines, nơi có gió mạnh ở một số khu vực. Đông Nam Á cũng là nơi có nhiều sông và núi, khiến thủy điện trở thành lựa chọn tốt cho các quốc gia như Lào và Campuchia.
Năng lượng địa nhiệt là một nguồn năng lượng tái tạo quan trọng khác.
Philippines hiện là nước dẫn đầu về sản xuất năng lượng địa nhiệt và Indonesia cũng có tiềm năng địa nhiệt rất lớn. Cả hai quốc gia đều tiếp tục mở rộng sản xuất năng lượng địa nhiệt để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Hỗ trợ chính sách và đầu tư
Để Đông Nam Á hoàn toàn tiếp nhận năng lượng tái tạo, các chính phủ phải tạo ra các chính sách hỗ trợ và đưa ra các ưu đãi cho đầu tư.
Các quốc gia cần cải thiện cơ sở hạ tầng năng lượng, xây dựng nhiều dự án năng lượng tái tạo hơn và thu hút các nhà đầu tư tư nhân. Các chính phủ cũng có thể hợp tác để chia sẻ các nguồn năng lượng tái tạo, điều này có thể giúp quá trình chuyển đổi năng lượng trở nên hiệu quả và giá cả phải chăng hơn.
Một ví dụ về hợp tác khu vực là ASEAN Power Grid (lưới điện ASEAN), nhằm mục đích kết nối các lưới điện trên khắp Đông Nam Á.
Bằng cách liên kết các quốc gia lại với nhau, khu vực có thể chia sẻ các nguồn năng lượng tái tạo dễ dàng hơn và giảm tổng chi phí sản xuất năng lượng. Đây là một khái niệm bắt đầu thâm nhập vào khu vực Campuchia – Việt Nam – Thái Lan nói riêng cũng như giữa Indonesia và Singapore.
Hiệu quả năng lượng
Ngoài việc tăng sản lượng năng lượng tái tạo, các chính phủ Đông Nam Á có thể giúp giảm nhu cầu năng lượng bằng cách cải thiện hiệu quả năng lượng.
Để đạt được mục đích này, các chính phủ và ngành công nghiệp có thể thúc đẩy hiệu quả năng lượng theo nhiều cách. Hệ thống giao thông công cộng có thể khuyến khích sử dụng xe buýt điện và các nhà máy có thể đầu tư vào các máy móc và quy trình tiết kiệm năng lượng hơn.
Công nghệ thông minh
Các công nghệ mới, chẳng hạn như lưới điện thông minh và hệ thống lưu trữ năng lượng, cũng có thể giúp Đông Nam Á chuyển đổi sang năng lượng tái tạo.
Một lưới điện thông minh với mạng lưới điện hiện đại sử dụng công nghệ kỹ thuật số để cung cấp điện hiệu quả hơn có thể giúp tích hợp năng lượng tái tạo, chẳng hạn như năng lượng mặt trời và gió, vào hệ thống năng lượng dễ dàng hơn và trong quá trình này có thể giúp ngăn ngừa tình trạng mất điện.
Hệ thống lưu trữ năng lượng, chẳng hạn như pin quy mô lớn, có thể lưu trữ năng lượng dư thừa được tạo ra trong ngày và giải phóng khi cần thiết; một yếu tố quan trọng trong việc lưu trữ năng lượng được tạo ra bởi năng lượng mặt trời và gió, vốn không phải lúc nào cũng đáng tin cậy.
Tình thế tiến thoái lưỡng nan về năng lượng của Đông Nam Á là một thách thức phức tạp.
Một mặt, khu vực này cần nhiều năng lượng hơn để thúc đẩy nền kinh tế đang phát triển và cải thiện cuộc sống của người dân.
Mặt khác, khu vực này phải giải quyết những tác động có hại của việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch, chẳng hạn như ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu.
Với các chính sách, khoản đầu tư và tiến bộ công nghệ phù hợp, Đông Nam Á có thể xây dựng tương lai năng lượng bền vững và giá cả phải chăng cho nhiều nhóm dân cư khác nhau của mình.
Bằng cách chuyển sang các nguồn năng lượng sạch hơn, cải thiện hiệu quả năng lượng và áp dụng các công nghệ thông minh, khu vực này có thể tiếp tục tăng trưởng kinh tế trong khi vẫn bảo vệ môi trường.
Đông Nam Á với kế hoạch giảm thải Carbon
Một số quốc gia Đông Nam Á đang trên đà phát triển đáng kể năng lượng tái tạo trong ngắn hạn, nhưng còn có những hạn chế về công nghệ, chính trị và tài chính, cùng các yếu tố khuyến khích sử dụng nhiên liệu hóa thạch, đồng nghĩa với việc khó đạt được các mục tiêu chuyển đổi năng lượng trong dài hạn.
Giống như phần lớn các nước trên thế giới, tất cả các nước Đông Nam Á đều có những kế hoạch đầy tham vọng nhằm loại bỏ dần nhiên liệu hóa thạch và, trong hầu hết các trường hợp, đạt mức phát thải ròng bằng 0 trong những thập kỷ tới. Brunei, Campuchia, Lào, Việt Nam, Malaysia, Singapore đều đặt mục tiêu đạt trung hòa carbon vào năm 2050, trong khi Indonesia có kế hoạch đạt mục tiêu tương tự vào năm 2060.
Myanmar, quốc gia đang nội chiến, cũng duy trì mục tiêu chính thức là đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2040 ở một số lĩnh vực thâm dụng đất đai nhất định - mục tiêu cao đối với một quốc gia có ngành nông nghiệp quy mô lớn. Philippines là thành viên duy nhất của ASEAN chưa chính thức công bố mục tiêu trung hòa carbon, nhưng đã đặt mục tiêu giảm 75% lượng khí thải carbon trong khung thời gian 2020-2030. ASEAN cũng đặt mục tiêu trung hòa carbon cho toàn khối vào năm 2060.
Cánh đồng điện năng lượng mặt trời và điện gió tại Ninh Thuận, Việt Nam.
Có điều, mặc dù những quốc gia này đều đưa các kế hoạch giảm phát thải carbon táo bạo vào luật pháp và chính sách, nhưng các mục tiêu phát triển kinh tế lại cho thấy khoảng trống trong kế hoạch trung, dài hạn. Các quốc gia trong ASEAN, trừ Singapore, đều có nền kinh tế đang phát triển. Điều này có nghĩa là nhu cầu năng lượng sẽ tăng trong những năm tới, khi đặt mục tiêu tìm kiếm nguồn cung năng lượng thay thế nhiên liệu hóa thạch và hướng tới các công nghệ tái tạo.
Do đó, các nước ASEAN sẽ phải cân bằng cam kết trung hòa carbon với các mục tiêu tăng trưởng kinh tế đầy tham vọng. Có thể nói Indonesia có động cơ lớn hơn cả bởi Jakarta mong muốn trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới vào năm 2050. Nhìn chung, các nước ASEAN đều mong muốn đạt mức tăng trưởng GDP hằng năm tương tự để hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế, vốn đòi hỏi phải gia tăng mức tiêu thụ năng lượng - điều mà năng lượng tái tạo khó có thể đáp ứng nếu không có nguồn nhiên liệu hóa thạch bổ sung đáng kể.
Cơ quan năng lượng quốc tế (IAEA) dự báo nhu cầu năng lượng của các nước ASEAN sẽ tăng trung bình hằng năm 3% đến năm 2030. Chính phủ các nước Đông Nam Á luôn thận trọng để tránh làm tăng gánh nợ, nhất là khi hầu hết các nước này đều vay nợ nhiều trong thời kỳ đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, một mình khu vực tư nhân sẽ không thể đầu tư lớn vào năng lượng tái tạo để các quốc gia này đạt được mục tiêu trung hòa carbon - nhất là khi bối cảnh pháp lý khó lường vẫn phổ biến ở nhiều nơi trong khu vực và than đá vẫn là ngành có lãi lớn.
ASEAN sẽ tiến gần đến việc hoàn thành các mục tiêu tái tạo ngắn hạn, nhưng sẽ chỉ có một số quốc gia thành viên đóng góp đáng kể vào mục tiêu này. Theo báo cáo tháng 1/2024 của Cơ quan giám sát năng lượng toàn cầu (GEM), công suất năng lượng mặt trời và gió ở ASEAN đã đạt 28 Gw trong năm 2024, chiếm 9% mức tiêu thụ năng lượng của khối. Đây là bước tiến lớn ảnh hưởng tới mục tiêu của khối là đến cuối 2025, năng lượng tái tạo chiếm 35% tổng năng lượng.
Theo báo cáo, các nước ASEAN chỉ cần lắp đặt thêm thiết bị năng lượng mặt trời và gió ở quy mô tiện ích với công suất 17 Gw trong 2 năm tới - cụ thể là những thiết bị được kết nối trực tiếp với lưới điện - để đáp ứng mục tiêu trên. Báo cáo cũng nêu rõ, ASEAN đang trên đà bổ sung 23 Gw thông qua các dự án cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo hiện đã được lên kế hoạch. Chỉ riêng Philippines và Việt Nam đã chiếm 80% tổng tiềm năng năng lượng mặt trời và gió của khu vực, với công suất năng lượng mặt trời và gió dự kiến lần lượt là 99 và 86 Gw Cho đến nay, hai nước đã đóng góp lần lượt 19 và 3 Gw vào tổng sản lượng của ASEAN. Thái Lan cũng đóng góp 3 Gw năng lượng gió và mặt trời.
Theo báo cáo khoảng cách phát thải năm 2023 của Liên hợp quốc, Indonesia chuẩn bị đạt được mục tiêu giảm phát thải. Tuy có quy mô nền kinh tế nhỏ nhưng Lào vẫn tự hào là quốc gia có công suất năng lượng gió và mặt trời tiềm năng trên 3 Gw. Điều này có nghĩa là trong hầu hết các trường hợp, mục tiêu giảm phát thải ngắn hạn trong toàn khối ASEAN là khả thi. Tuy nhiên, Lào, Brunei và thành viên sắp tới của ASEAN là Timor Leste hiện không có dự án năng lượng mặt trời hay gió với quy mô tiện ích nào đang hoạt động. Các nước ASEAN cũng đang đặt cược vào năng lượng hạt nhân như một cách để giảm mức tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải xóa bỏ sự hoài nghi của công chúng đối với nó.
Nhu cầu năng lượng trong tương lai dựa vào tăng trưởng kinh tế có nghĩa rằng các nước ASEAN cần đầu tư đáng kể vào công nghệ năng lượng tái tạo để đạt được mục tiêu của mình, nhưng viện trợ nước ngoài khó có thể lấp đầy mọi khoảng trống. Nhiên liệu hóa thạch, vì thế, sẽ tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong cơ cấu năng lượng của ASEAN trong tương lai gần, bất chấp các kế hoạch quốc gia và toàn khối nhằm loại bỏ chúng vào giữa thế kỷ, vì khu vực sẽ tiếp tục dựa vào công nghệ hydrocarbon để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Những hạn chế như chi phí cao, nguồn tài chính hạn chế và cơ hội sinh lời cho đầu tư tư nhân giảm - cùng với các cải cách chính sách năng lượng chưa hoàn thiện và đôi khi mâu thuẫn nhau - cũng sẽ làm chậm tiến trình triển khai năng lượng tái tạo và năng lượng hạt nhân. Một số sáng kiến giúp khu vực dịch chuyển khối nhiên liệu hóa thạch đang được thực hiện, chẳng han như Cơ chế chuyển đổi năng lượng (ETM) và Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) lần lượt kết nối các nước đang phát triển với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và các nhà tài trợ G7.
Chính phủ Lào 'bật đèn xanh' cho dự án điện gió 1.200 MW ở miền Trung Theo phóng viên TTXVN tại Lào, trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy năng lượng tái tạo ở Đông Nam Á, Chính phủ Lào vừa ký Thỏa thuận phát triển dự án điện gió có công suất lên tới 1.200 MW tại huyện Sepon, thuộc tỉnh Savannakhet (Trung Lào), giáp giới với Việt Nam. Truyền thông Lào đánh giá đây không chỉ là...