Thả trăm con lợn đen trũi trên đất đồi, tha hồ ăn cỏ voi, dây khoai, chủ trại không có đủ lợn để bán
Tận dụng đất đồi rừng rộng, gia đình anh Lý Văn Minh, thôn Khuổi Diễn, xã Cốc Đán (Ngân Sơn, Bắc Kạn) đã đầu tư nuôi lợn rừng bán hoang dã.
Mô hình không chỉ giúp gia đình anh có thu nhập, việc làm mà đang từng bước xây dựng thương hiệu bằng việc liên kết thành lập Hợp tác xã (HTX).
Gia đình anh Minh nuôi khoảng 100 con lợn rừng to, nhỏ.
Anh Minh chia sẻ về cơ duyên nuôi lợn rừng: Trước đây gia đình tôi nuôi lợn trắng nhưng chi phí cho thức ăn lớn, giá thành không ổn định nên giữa năm 2018 đã quyết định chuyển sang nuôi thử lợn rừng.
Hai vợ chồng mua sắt B40 về quây gần 1ha đồi, mua 3 con nái, 01 con đực giống lợn rừng để nuôi. Sau khoảng 3 năm, tiếp tục đầu tư thêm 7 con nái để nhân đàn. Đến nay, gia đình duy trì nuôi hơn 10 nái lợn rừng, vừa bán lợn giống, vừa nuôi lợn thương phẩm nên trong chuồng luôn có khoảng 100 con lợn rừng, có thời điểm nhiều trên 150 con.
Lợn rừng có sức đề kháng tốt, ít bệnh, nguồn thức ăn phong phú như cây chuối, cỏ voi, dây khoai lang… nên nuôi theo hướng bán hoang dã tiết kiệm được nhân lực, chi phí thức ăn. Để bảo vệ môi trường, gia đình anh Minh xây dựng chuồng trại khép kín, hệ thống biogas xử lý chất thải để hạn chế mùi hôi, tận dụng khí ga đun nấu, chất thải qua xử lý dùng tưới cỏ voi, chuối.
Đối với lợn rừng, thời gian nuôi đến khi xuất bán từ 8 tháng đến 1 năm. Bình quân mỗi năm gia đình anh Minh xuất bán trên dưới 50 con, mỗi con có trọng lượng khoảng 50kg trở lên, giá bán phụ thuộc vào từng thời điểm, dao động từ 100.000 – 120.000 đồng/kg.
Thị trường tiêu thụ cơ bản ổn định bởi thời gian nuôi lâu nên chưa đủ số lượng lợn thương phẩm để mở rộng thị trường.
Dù lợn rừng có khả năng chống chịu thời tiết khắc nghiệt và bệnh dịch khá tốt nhưng gia đình anh Minh luôn tiêm vắc xin đầy đủ cho đàn lợn, phun tiêu độc khử trùng thường xuyên khu vực chăn nuôi.
Ngoài thức ăn thô thì thêm thức ăn tinh như ngô, thóc để bổ sung dinh dưỡng, giúp đàn lợn lớn nhanh, chất lượng thịt ngon.
Để đáp ứng đa dạng nhu cầu thị trường, gia đình anh Minh còn nuôi thêm lợn đen địa phương theo hướng bán chăn thả, xây dựng thêm chuồng để tăng đàn lợn nái, đáp ứng nhu cầu con giống, lợn thương phẩm cho thị trường.
Video đang HOT
Xác định phát triển chăn nuôi lợn rừng, lợn lai rừng, lợn đen địa phương là nguồn thu nhập chính đem lại hiệu quả kinh tế, gia đình anh Minh đã từng bước xây dựng thương hiệu, tìm hướng đảm bảo ổn định đầu ra, giá cả và hạn chế dịch bệnh cho đàn lợn.
Cuối năm 2021 anh Minh đứng ra thành lập HTX OCOP Cốc Đán với 10 thành viên. Hiện nay các thành viên đang tập trung xây dựng chuồng trại để tiến tới đầu tư con giống, nhân đàn. Với định hướng phát triển chăn nuôi có sự liên kết, HTX sẽ từng bước mở rộng quy mô nuôi, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thực phẩm sạch, an toàn của người tiêu dùng.
Vì ai mà hơn 10 năm vợ chồng ông nông dân Thái Nguyên vẫn theo cái nghề thức khuya dậy sớm này?
Nhờ sản xuất mỳ gạo, vợ chồng anh Dương Văn Giang (tổ dân phố Đoàn Kết, thị trấn Hương Sơn, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên) có thu nhập ổn định, nuôi hai con ăn học thành tài.
Mặc dù phải thức khuya dậy sớm, nhưng vợ chồng anh Dương Văn Giang và chị Đồng Thị Thảo (tổ dân phố Đoàn Kết, thị trấn Hương Sơn, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên) vẫn gắn bó với công việc làm mỳ gạo suốt 10 năm nay.
Bởi nhờ làm mỳ gạo, hai vợ chồng có thu nhập ổn định, nuôi hai con ăn học thành đạt, người học thạc sĩ ở nước ngoài, người đã có công việc ổn định.
Gia đình anh Giang gắn bó với nghề sản xuất mỳ gạo đã 10 năm nay. (Ảnh: Hà Thanh)
Anh Giang cho biết, trước đây, hai vợ chồng chỉ biết quanh quẩn với đồng ruộng, cây lúa, con trâu, con bò nên thu nhập rất thấp. Nhưng kể từ khi tư duy thay đổi, anh đã đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm sản xuất mỳ gạo ở nhiều nơi. Về nhà, anh đã quyết định bỏ tiền đầu tư máy móc và sản xuất mỳ gạo. Gia đình anh là hộ thứ 4 tham gia sản xuất mỳ gạo ở địa phương.
Những ngày đầu khi mới bắt tay vào làm mỳ gạo, hai vợ chồng cũng gặp phải rất nhiều khó khăn. Trong đó khó khăn lớn nhất là tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm.
Khi đó, ngày nào hai vợ chồng cũng ròng rã chở từng bó mỳ 5 - 10kg mang đi khắp các hàng quán để mời hàng và tìm nơi tiêu thụ. Đến nay, khi thị trường đã ổn định nên gia đình anh sản xuất đến đâu bán hết đến đó.
Hiện nay, trung bình mỗi ngày, gia đình anh Giang sẽ làm 3 tạ gạo, tương đương sản xuất được 270kg mỳ thành phẩm. Thời điểm cuối năm, nhu cầu thị trường tăng cao, gia đình sẽ làm khoảng 4 tạ gạo mỗi ngày.
Trung bình mỗi ngày vợ chồng anh Giang sản xuất ra khoảng 270kg mỳ gạo khô (Ảnh: Hà Thanh)
Theo anh Giang, gạo để làm mỳ phải là gạo Khang Dân chuẩn vì chỉ có gạo này mới làm được mỳ ngon. Mỳ được sản xuất 100% từ nguyên liệu gạo, không pha chế bất cứ loại nguyên liệu nào khác nên rất an toàn.
Các công đoạn làm mỳ đòi hỏi nhiều thời gian nhưng không liền mạch nên mỗi mẻ mỳ thường kéo dài trong 2 ngày.
Gạo làm mỳ phải được đãi và vo sạch, rồi cho vào ngâm trong khoảng thời gian 3 tiếng đồng hồ. Trước khi cho vào máy nghiền bột, gạo lại được vo lại một lần nữa. Bột gạo được cho vào túi vải rồi cho lên máy ép khô, tiếp đó sẽ cho vào máy đùn để đùn ra mỳ.
Lúc này, mỳ sẽ được ủ trong khoảng 10 tiếng, đến ngày hôm sau thì mang rửa sạch và phơi khô. Trước khi rửa mỳ, cần ngâm mỳ trong bể khoảng 30 phút.
Mỳ sau khi đùn xong sẽ được cho vào ủ trong khoảng 10 tiếng đồng hồ. (Ảnh: Hà Thanh)
Theo anh Giang, thời gian ủ mỳ phải tối thiểu là 10 tiếng đồng hồ. Nếu không đạt đủ thời gian đó, sợi mỳ khi rửa sẽ bị dính vào nhau khiến cho mỳ bị cứng. Còn nếu ủ lâu quá, mỳ sẽ bị chua.
Việc làm mỳ gạo còn phụ thuộc chủ yếu vào thời tiết. Nếu thời tiết nắng nóng và hanh khô, thời gian làm mỳ sẽ nhanh và đỡ vất vả hơn, đồng thời sợi mỳ sẽ dai, ngon và có màu trắng đẹp mắt.
Còn nếu thời tiết mưa ẩm, phải cho mỳ vào phòng sấy trong khoảng 8 tiếng. Do vậy, làm mỳ vào những ngày mưa, thời tiết nồm ẩm thì chi phí cho mỗi kilogram mỳ sẽ tăng cao.
Mỳ gạo được cho vào nhà sấy điều hòa trong khoảng thời gian 8 tiếng (Ảnh: Hà Thanh)
Đặc biệt, trong quá trình làm mỳ, cần chú ý điều chỉnh nhiệt độ thích hợp để sao cho khi nấu, mỳ sẽ dai, giòn và không bị nhão.
Trải qua nhiều lần thay đổi công nghệ và máy móc, đến nay hệ thống máy sản xuất mỳ gạo của gia đình anh Giang đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu về sản xuất, tiết kiệm chi phí nhân công và diện tích phơi, sấy.
Hiện nay, ngoài nhân công chính là 2 vợ chồng, gia đình còn thuê thêm một người rửa mỳ với thu nhập 150.000 đồng/người/ngày (Ảnh: Hà Thanh)
Chị Thảo chia sẻ, việc làm mỳ cũng tương đối vất vả vì thường xuyên phải dậy sớm từ 3 giờ sáng. Tuy nhiên so làm ruộng, thu nhập từ làm mỳ vẫn ổn định hơn, ít rủi ro, thậm chí thời điểm dịch bệnh vẫn bán chạy. Vơi giá bán mỳ gạo 17.000 đồng/kg như hiện nay, hai vợ chồng có thu nhập khoảng 1 triệu đồng/ngày.
Chị Thảo cho biết thêm, đến nay, sản phẩm mỳ gạo của gia đình đã được tiêu thụ ở nhiều tỉnh miền Bắc, thậm chí cả trong Nam.
Trong thời gian tới, anh chị dự định sẽ phát triển và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm mỳ của gia đình mình nhằm hướng tới đăng ký nhãn hiệu sản phẩm, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Sản phẩm mỳ của vợ chồng anh Giang, chị Thảo được tiêu thụ ở nhiều nơi trên cả nước. (Ảnh: Hà Thanh)
Ông Dương Văn Suốt - Bí thư Chi bộ tổ dân phố Đoàn Kết cho biết: Hiện cả tổ dân phố có 8 hộ gia đình phát triển nghề sản xuất mỳ gạo. Sắp tới sẽ có thêm vài hộ phát triển mô hình sản xuất mỳ này.
Đây là một nghề cho thu nhập ổn định và có tính bền vững, có thể phát triển lâu dài. Do đó, địa phương cũng có định hướng sẽ tiến tới thành lập HTX sản xuất mỳ và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm .
Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Cho lợn, gà uống nước tỏi, dùng toàn cây cỏ thảo dược tự nhiên để... tăng sức đề kháng Việc nhân rộng các mô hình chăn nuôi an toàn sinh học được xem là giải pháp quan trọng đối với ngành chăn nuôi ở tỉnh Quảng Trị. Đây là mô hình mang lại "lợi ích kép", vừa tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ đàn vật nuôi, vừa góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. "Lợi...