Tên lửa chống hạm khiến nhóm tàu sân bay Mỹ yếu thế
Tên lửa chống hạm nhiều tầm bắn của Trung Quốc được các chuyên gia cảnh báo rằng khiến nhóm tàu sân bay Mỹ bị đe dọa.
Tên lửa chống hạm nhiều tầm bắn của Trung Quốc được các chuyên gia cảnh báo rằng khiến nhóm tàu sân bay Mỹ bị đe dọa.
Trung tâm An ninh Mỹ Mới (CNAS) mới đây đã phát hành báo cáo “cảnh báo đỏ” cho rằng, việc Trung Quốc phát triển tên lửa chống hạm kết hợp với nền tảng khác nhau có thể hình thành một khả năng “chống tiếp cận và ngăn chặn khu vực” hơn 600 hải lý đến tận đảo Guam, khiến tàu sân bay Mỹ đối mặt với “ mối đe dọa ngày càng nghiêm trọng”.
Báo cáo với chủ đề “Cảnh báo đỏ: mối đe dọa ngày càng nghiêm trọng đối với tàu sân bay Mỹ” do nhà nghiên cứu dự án phòng thủ chiến lược và đánh giá của CNAS Kelley Sayler viết, đã đánh giá tất cả mối đe dọa tầm ngắn, tầm trung và tầm xa mà tàu sân bay của nước này phải đối mặt. Tập trung phân tích những thách thức về khả năng “chống tiếp cận và ngăn chặn khu vực” (A2/AD) mà Trung Quốc đang phát triển. Đồng thời báo cáo cũng đưa ra kết luận: tàu sân bay Mỹ sẽ không thể an toàn trong trường hợp xảy ra xung đột.
Tàu sân bay Mỹ đối mặt với thách thức từ Trung Quốc.
Theo báo cáo này, tuy Hải quân Mỹ từ lâu được hưởng tự do hàng hải mọi nơi trên thế giới, nhưng thời đại thống trị không bị thách thức này có thể sẽ kết thúc.
Vì những năm gần đây, một số quốc gia gồm Trung Quốc, Nga và Iran tăng cường đầu tư khả năng “chống tiếp cận và ngăn chặn khu vực”, bao gồm tên lửa hành trình chống hạm, tên lửa đạn đạo chống hạm, tàu ngầm, tàu sân bay và hệ thống phòng không hiện đại. Những công năng này có thể được mở rộng trong mấy năm tới, hơn bao giờ hết là hạn chế hoạt động tác chiến của tàu sân bay Mỹ.
Báo cáo chỉ ra, hơn chục năm qua, tàu sân bay và nhóm chiến đấu (CVWs) liên quan khác của Mỹ là biểu tượng mạnh mẽ cho sức mạnh quân sự của nước này. Hiện nay Mỹ có 10 tàu sân bay đều có trọng tải 100.000 tấn trở lên và có thể chở hơn 70 máy bay.
Trong bất kỳ thời điểm nào đều có 2 đến 4 tàu sân bay triển khai ở nước ngoài. Nhưng với khả năng A2/AD không ngừng được mở rộng, Mỹ sẽ đối mặt với một lựa chọn: mở rộng phạm vi hoạt động của tàu sân bay, có thể vượt qua bán kính tác chiến của máy bay chiến thuật không cần tiếp nhiên liệu trên không hoặc là chịu nguy cơ thiệt hại về sinh mệnh và tài sản.
Tàu khu trục DDG-1000 của Hải quân Mỹ
Ba thách thức của hệ thống Trung Quốc đối với tàu sân bay Mỹ
Video đang HOT
Hệ thống vũ khí tầm ngắn gồm hệ thống có khả năng làm việc trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý(EEZ) của Trung Quốc hoặc trong phạm vi khu vực tranh chấp chủ quyền với nước khác. Các vũ khí như tên lửa phòng không (SAMS) S-300 và HQ-9, tên lửa hành trình chống hạm YJ-83 và thiết bị bay chiến thuật không người lái (UAV) đều có thể vươn tới Đài Loan.
Hệ thống vũ khí tầm trung bao gồm khả năng hoạt động trong phạm vi xa 600 hải lý, như tên lửa hành trình chống hạm bắn từ tàu ngầm, chiến đấu cơ J-10, máy bay ném bom và tàu mặt nước mang tên lửa.
Trong trường hợp xảy ra xung đột, những vũ khí này có thể sử dụng trên khắp vùng biển Hoa Đông và biển Đông, có thể vươn tới Nhật Bản từ phía Bắc và đến chuỗi đảo thứ nhất của Philippin từ phía Nam.
Hệ thống tầm xa gồm hệ thống có khả năng hoạt động hơn 600 hải lý, như tên lửa đạn đạo chống hạm (ASBMs) DF-21D và DF-26, tên lửa hành trình chống hạm phóng tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn và máy bay ném bom, tên lửa YJ-12 do máy bay Su-27, J-11 có bán kính tác chiến 750 hải lý và J-20 có bán kính tác chiến 1.000 hải lý phóng. Những vũ khí này có thể kéo dài đến chuỗi đảo thứ 2, gồm đảo Guam, toàn bộ vịnh Bengal và phần lớn biển Ả Rập.
Tên lửa chống hạm của Trung Quốc.
Tại phiên điều trần quốc hội Mỹ gần đây Tư lệnh Thái Bình Dương nước này Harry B. Harris Jr. thừa nhận tên lửa DF-21 và DF-26 tạo thành mối đe dọa đối với biên đội tàu sân bay Mỹ.
Cuối cùng, báo cáo đưa ra chính sách ứng phó của Mỹ. Đầu tiên, tăng cường phạm vi tác chiến của nhóm máy bay trên tàu sân bay, để tàu sân bay có thể hoạt động ở phạm vi 1.000 – 1.500 hải lý, điều này cần phải dựa vào hệ thống máy bay không người lái có khả năng tấn công lớn trên tàu sân bay.
Hai là, quân đội Mỹ có thể di chuyển trọng tâm từ tàu sân bay Ford đến tàu ngầm và tàu không người lái dưới nước có thể hoạt động gần đối phương.
Hoặc có thể kết hợp hai phương pháp này, để có được sự cân bằng giữa lực lượng tấn công và lực lượng sinh tồn. Ngoài ra Mỹ còn phải phát triển công nghệ hiện đại như vũ khí chống ngầm tầm xa, pháo điện từ.
Bằng Hữu
Theo_Kiến Thức
Soi mặt "sát thủ diệt hạm" ít tiếng tăm của Nga
Không phải loại tên lửa chống hạm nào của Nga cũng nổi tiếng, có những thiết kế không nhiều người biết tới dù nó được sử dụng rộng rãi tại Nga
Nhắc tới tên lửa chống hạm Liên Xô và Nga, ngươi ta có lẽ thường nghĩ ngay tới dòng tên lửa P-15 Termit (SS-N-2 Styx), P-270 Moskit (SS-N-22), P-500 Bazalt, P-700 Granit hay Kh-35 Uran Việt Nam đang sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, bên cạnh các mẫu tên lửa nổi tiếng đó, Liên Xô (Nga) còn có nhiều loại tên lửa chống hạm khác ít tiếng tăm hơn, nhưng chúng cũng có sức mạnh đáng gờm
Đó là tên lửa chống hạm đầu tiên của Liên Xô - KSShch (hay còn gọi là 4K32, P-1 hoặc định danh NATO là SS-N-1). Tên lửa nặng tới 3,1 tấn, mang đầu đạn hạt nhân, tầm bắn khoảng 40km, dẫn đường quán tính. Nó được triển khai chủ yếu trên các khu trục hạm Project 56M và Project 57A.
Tên lửa chống hạm P-70 Ametist (NATO định danh là SS-N-7 Starbright) được phát triển từ đầu những năm 1960, triển khai trên các tàu ngầm hạt nhân tấn công Project 670 Skat và Project 661 Anchar.
P-70 Ametist được thiết kế hệ thống đẩy đồ sộ gồm 5 động cơ (4 động cơ đẩy khởi tốc và một động cơ hành trình) nhưng chỉ giúp cho tên lửa phóng từ tàu ngầm này bay xa 65km, tốc độ bay cận âm, trang bị đầu dẫn radar chủ động và đầu đạn hạt nhân 200 kiloton. Nó có thể phóng ở độ sâu 30m dưới mặt nước biển.
Tên lửa hành trình chống hạm P-120 Malakhit (NATO định danh là SS-N-9 Siren) được OKB-52 MAP thiết kế từ cuối những năm 1960 để triển khai trên các tàu tên lửa tấn công nhanh và tàu ngầm.
P-120 nặng 3,1 tấn, dài 8,84m, trang bị hai động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn và một động cơ phản lực cho tốc độ bay tối đa Mach 0,9. Trên đạn được trang bị radar đo cao vã dẫn đường pha cuối băng L.
Khi phóng từ tàu ngầm, tên lửa đạt tầm bắn 70km với đầu đạn thường nặng 840kg và 110km với đầu hạt nhân 200 kiloton. Khi phóng từ tàu mặt nước, cự ly bắn lần lượt là 120-150km với hai loại đầu đạn.
Tên lửa hành trình chống hạm tầm siêu xa P-750 Meteorit do môt loạt các cục thiết kế Mashinostroyeniya, Raduga, KBKhA và Khatron hợp tác phát triển, triển khai cho các tàu ngầm hạt nhân Project 667 và máy bay ném bom Tu-95. Tên lửa đã được phóng thử nghiệm thành công vào tháng 12/1981, phóng thử lần đầu từ tàu ngầm vào ngày 26/12/1983.
Tuy nhiên, dự án sau này cùng đã bị hủy bỏ. Tên lửa P-750 Meteorit (NATO định danh là AS-X-19 Koala, Nga có tên gọi là khác là Kh-80 hoặc 3M25H) nặng 6,4 tấn, dài 12,5m. tầm bắn đạt đến 3.000km với tốc độ bay Mach 3-4 tức 3.500km/h, dẫn đường kết hợp nhiều kiểu từ quán tính, so sánh biên dạng địa hình, định vị vệ tinh tới radar, hồng ngoại...
Tên lửa hành trình chống hạm P-1000 Vulkan (định danh của Cục pháo binh - tên lửa Liên bang là 3M70) là biến thể cải tiến sâu từ P-500 Bazalt. Ban đầu nó được triển khai trên các tàu ngầm hạt nhân tấn công Project 675 giai đoạn những năm 1980-1990. Sau này nó được trang bị cho các tuần dương hạm Project 1164 thay cho P-500.
P-1000 Vulkan nặng 4,8 tấn, dài 11,7m, mang đầu đạn nặng 1 tấn, tầm bắn đến 700km, trang bị radar dẫn đường pha cuối, trần bay 50-5.000m, tốc độ bay Mach 2,5.
Tên lửa chống hạm RPK-6 Vodopad được triển khai từ các ống phóng ngư lôi 533mm trên tàu ngầm hoặc tàu mặt nước. Tên lửa mang theo một ngư lôi 400mm hoặc đàu đạn hạt nhân, tầm bắn 100km.
Theo_Kiến Thức
Mỹ biết trước vụ đánh bom khủng bố ở Thổ Nhĩ Kỳ? Đại sứ Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ đã xác nhận rằng họ đã nhận được cảnh báo về mối đe dọa đánh bom hai ngày trước khi vụ nổ xảy ra. Truyền thông Nga ngày 14/3 đưa tin cho biết, Mỹ đã nhận được cảnh báo về vụ tấn công khủng bố tại thủ đô Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ và cảnh báo cho...