Tàu sân bay Mỹ thay đổi hải trình vào Biển Đông để đối phó Trung Quốc?
Một số chuyên gia cho rằng các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ không chỉ gia tăng số lần đi qua Biển Đông mà còn thay đổi hải trình đến vùng biển này để Trung Quốc khó đoán trước.
Nhóm tác chiến tàu sân bay USS Carl Vinson cùng một số tàu đổ bộ Mỹ hiện diện ở Biển Đông ngày 13.1.2022. Ảnh HẢI QUÂN MỸ
Tờ South China Morning Post ( SCMP) ngày 19.1 đưa tin ông Hồ Ba, giám đốc tổ chức theo dõi tình hình Biển Đông SCSPI thuộc Đại học Bắc Kinh hôm 14.1 khẳng định với Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV) rằng kể từ năm ngoái, quân đội Mỹ củng cố việc triển khai quân sự ở Biển Đông về quy mô, tần suất và kịch bản huấn luyện.
“Phức tạp, không thể đoán trước”
Ông Hồ nói rằng các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ vào Biển Đông 10 lần trong năm 2021, so với 6 lần trong năm 2020 và 5 lần trong năm 2019, với các mô hình huấn luyện “ngày càng trở nên phức tạp và không thể đoán trước”. Trong quá khứ, các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ thường vào Biển Đông thông qua eo biển Ba Sĩ, nằm giữa Đài Loan và Philippines, nhưng hải trình và khung thời gian hoạt động của những tàu này trở nên đa dạng kể từ năm ngoái, theo ông Hồ.
Dữ liệu điều hướng và những hình ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ có khuynh hướng đi qua những vùng biển hẹp giữa các quần đảo của Philippines trong lúc vào Biển Đông, trong đó có eo biển Balabac, theo CCTV.
Tàu sân bay Mỹ USS Carl Vinson trong một lần hoạt động ở Biển Đông . Ảnh HẢI QUÂN MỸ
Trong hải trình đến Biển Đông mới nhất vào ngày 11.1, nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ do hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson dẫn đầu đã vào khu vực thông qua eo biển Balabac để diễn tập chung với một nhóm tàu đổ bộ Mỹ hồi tuần trước, theo SCMP dẫn thông báo từ Hải quân Mỹ.
Gây bất ngờ cho Trung Quốc?
Chuyên gia Đài Loan Lữ Lễ Thi cho rằng các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ dường như đang cố gắng thực hiện các biện pháp đối phó mới đối với những chiến lược chống tiếp cận của quân đội Trung Quốc (PLA) nhằm ngăn chặn sự can thiệp quân sự của nước ngoài ở vùng biển xung quanh Đài Loan và ở Biển Đông. Ông còn cho rằng hải quân Mỹ đang cố gắng tránh những hệ thống radar vượt giới hạn đường chân trời (OTH) mà Trung Quốc đã lắp đặt trái phép ở các bãi đá Vành Khăn, Xu Bi và Chữ Thập. Đây là 3 thực thể nằm trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng bị Trung Quốc chiếm đóng và bồi đắp thành đảo nhân tạo phi pháp.
“Tôi tin rằng hải quân Mỹ có thể dùng các thực thể địa lý của Philippines để tiếp cận khu vực và bất ngờ xuất hiện ở những nơi ngoài dự tính của PLA, vì radar OTH có hạn chế khi theo dõi những vật thể đang tiếp cận từ một nhóm quần đảo”, ông Lữ nhận định.
Mỹ công bố nghiên cứu mới phản đối yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông
Ngoài ra, chuyên gia quốc phòng Swee Lean Collin Koh thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore) nhận định việc lựa chọn các hải trình mới phù hợp với khái niệm triển khai lực lượng một cách năng động đang được thực hiện bởi hải quân Mỹ. “Thay vì chỉ dùng những hải trình truyền thống, việc gia tăng sử dụng những tuyến thay thế ít được biết đến sẽ làm giảm khả năng đoán trước về hướng di chuyển của các khí tài quân sự Mỹ. Điều này giúp gia tăng tính linh hoạt trong các chiến lược và chiến dịch vào thời bình cũng như lúc xảy ra các tình huống bất ngờ”, ông Koh nhận định.
Mỹ công phá các điểm yếu pháp lý của Trung Quốc
Báo cáo số 150 của Cục Đại dương - môi trường - các vấn đề khoa học thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ khẳng định rõ yêu sách chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trên toàn bộ Biển Đông là phi pháp.
Chính quyền ông Joe Biden vẫn duy trì thế trận "nội công ngoại kích" trước chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông, vừa dùng sức mạnh quân sự vừa dùng lý lẽ trên mặt trận pháp lý. Trong ảnh: Nhóm tàu sân bay USS Carl Vinson - Ảnh: Hải quân Mỹ
Việc Cục Đại dương - môi trường - các vấn đề khoa học thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ công bố báo cáo số 150 về các Giới hạn trên biển cho thấy Washington tiếp tục chiến thuật "công phá các điểm yếu" trên mặt trận pháp lý trong chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông.
Điều này khác với các hoạt động mang tính đối trọng về quân sự như tăng cường tuần tra, tập trận hàng hải hoặc đáp trả về kinh tế như trừng phạt các công ty Trung Quốc có liên quan hoạt động phi pháp ở Biển Đông. Những hành động này vốn thuộc về chiến lược "làm yếu các điểm mạnh" từ bên ngoài mà Mỹ đang dùng để ứng phó với Trung Quốc trên Biển Đông.
Sự duy trì thế trận "nội công ngoại kích" theo cách tiếp cận này không chỉ cho thấy tính nhất quán trong chiến lược tăng cường ảnh hưởng ở Biển Đông của nhiều đời tổng thống Mỹ, mà còn tạo nền tảng cho những chuyển biến tích cực trên mặt trận pháp lý Biển Đông ngay từ đầu năm 2022.
Cách tiếp cận nhất quán
Vì đã chọn không tham gia Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) 1982 nên Chính phủ Mỹ có xu hướng tránh né việc công nhận bất cứ phán quyết của tòa án quốc tế nào liên quan đến Luật biển.
Tuy nhiên, xu hướng này đã thay đổi đáng kể từ sau khi Chính phủ Mỹ gửi một ghi chú ngoại giao dưới dạng công hàm đến Trung Quốc vào tháng 12-2016 để phản đối lập trường của Bắc Kinh ngay sau khi nước này đưa ra 3 văn bản tuyên bố bác bỏ phán quyết của Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS ngày 12-7-2016.
Trong các sự kiện thời Tổng thống Donald Trump như gửi công thư cho tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vào tháng 6-2020 để phản đối công hàm CML/14/2019 của Trung Quốc, đưa ra tuyên bố lập trường Biển Đông chính thức của Mỹ ở cấp độ ngoại trưởng (tháng 7-2020)... phía Mỹ đã nhiều lần nhắc về phán quyết của Tòa trọng tài Biển Đông năm 2016.
Động thái công bố báo cáo số 150 về yêu sách Biển Đông của Trung Quốc ngày 12-1 với một loạt dẫn chiếu đến UNCLOS 1982, cũng như phán quyết của Tòa trọng tài Biển Đông 2016 cho thấy sự tiếp nối nhất quán về lập trường pháp lý của Chính phủ Mỹ về Biển Đông ngay ở thời Tổng thống Biden.
Nội dung của báo cáo số 150 cũng cho thấy sự cập nhật chi tiết hơn bản đồ về các vùng biển và thực thể quan trọng trên Biển Đông. Đây là kết quả của chuỗi hoạt động khảo sát hàng không (bắt đầu từ 2015) và khảo sát hàng hải, gần nhất là chuyến khảo sát ít được nhắc đến của tàu USNS Mary Sears vào tháng 9-2021 của quân đội Mỹ.
Ngoài ra, nó cũng thể hiện sự chuyên nghiệp hơn trong cách diễn giải và dẫn chiếu luật khi không chỉ nhắc đến UNCLOS, phán quyết Tòa Biển Đông 2016 mà còn có cả các luật tập quán và phụ lục về những ứng xử trên thực tiễn thỏa thuận giữa các quốc gia, trích dẫn cả các diễn giải luật của Trung Quốc để tăng tính phản biện.
Bác bỏ mọi yêu sách của Trung Quốc
Khác với báo cáo số 143 công bố năm 2014 của Bộ Ngoại giao Mỹ vốn chỉ dừng ở việc yêu cầu Trung Quốc bổ sung thêm tài liệu về yêu sách của họ ở Biển Đông, báo cáo số 150 khẳng định rõ yêu sách chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trên toàn bộ Biển Đông là phi pháp.
Báo cáo này đã bổ sung thêm cả sự phi pháp trong các yêu sách của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa, giúp bổ sung thêm một bộ phận quan trọng bên cạnh phán quyết Tòa trọng tài năm 2016 bác bỏ tính hợp pháp trong sự hiện diện mà Trung Quốc luôn diễn giải ở Trường Sa.
Như vậy từ thời điểm này, toàn bộ các hoạt động của Trung Quốc như khảo sát khoa học biển, các sáng kiến hợp tác vận tải biển, phát triển đối tác kinh tế biển... đều vô hiệu trước luật pháp quốc tế.
Thêm vào đó, với chiến thuật công kích "điểm yếu pháp lý" của Trung Quốc trên Biển Đông, phía Mỹ lúc này đã mở đường cho các hành động pháp lý khác của các nước đồng minh hoặc nhóm các thành viên ASEAN trực tiếp có liên quan đến Biển Đông. Nhóm này gần đây đã có sự gắn kết mạnh mẽ với xu hướng tạo thành khối A5 gồm Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Philippines và Brunei.
Trên cơ sở báo cáo số 150, Trung Quốc dường như đã mất hoàn toàn cơ sở pháp lý để có thể duy trì hiện diện trong đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC). Khi không còn là bên có hiện diện hợp pháp trên Biển Đông, thì các lập trường đơn phương của Trung Quốc vốn quá xa rời với phần còn lại của ASEAN không thể tiếp tục cản trở tiến trình đàm phán định hình trật tự pháp lý khu vực.
ASEAN khi đó với sự chủ đạo của khối A5 hoàn toàn có thể bàn đến viễn cảnh tách ra thực hiện một cuộc đàm phán về COC riêng của khối, trước khi mở rộng sự tham gia đến các nước bên ngoài có quan tâm. Điều này theo đúng như cách ASEAN đã bắt đầu đàm phán với nhau về Tuyên bố ứng xử về các bên ở Biển Đông (DOC) từ năm 1992 và đến 10 năm sau Trung Quốc mới gia nhập.
Mỹ tăng số chuyến bay do thám sát Trung Quốc ở Biển Đông lên mức kỷ lục? Tổ chức theo dõi tình hình Biển Đông (SCSPI) thuộc Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc) vừa khẳng định quân đội Mỹ đã tiến hành 94 chuyến bay do thám trên Biển Đông gần bờ biển Trung Quốc trong tháng 11. Con số trên cho thấy mức tăng gần 30% so với chuyến bay do thám cao kỷ lục của Mỹ ở Biển...