Tập đoàn Viettel đạt doanh thu 251.000 tỷ đồng trong năm 2019
Kết thúc năm 2019, Viettel đạt tổng tổng doanh thu hơn 251.000 tỷ đồng, tăng trưởng 7,5% so với 2018, chiếm 50% doanh thu toàn ngành viễn thông.
Tổng doanh thu từ thị trường nước ngoài của Viettel đạt gần 42 nghìn tỷ đồng. (Ảnh: Viettel)
Thông tin từ Viettel phát đi ngày 10/1 cho biết trong năm đầu tiên thực hiện chiến lược “Kiến tạo xã hội số” doanh nghiệp này đã đạt tổng doanh thu hơn 251.000 tỷ đồng, chiếm 50% doanh thu toàn ngành viễn thông năm 2019.
Theo đó, lợi nhuận của Viettel đạt hơn 39.000 tỷ đồng, tăng trưởng 5,5 % đồng thời nộp ngân sách hơn 38.000 tỷ đổng, tăng trưởng 2,7 %.
Lĩnh vực viễn thông của Viettel vẫn tăng trưởng 6,4%; đặc biệt, lĩnh vực đầu tư nước ngoài của Viettel tăng trưởng 24,4%.
Tổng doanh thu từ thị trường nước ngoài của Viettel đạt gần 42.000 tỷ đồng, đóng góp 2.200 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế – gấp 2 lần so với kế hoạch dự kiến. Trong khi đó, doanh thu từ lĩnh vực giải pháp công nghệ thông tin cũng tăng trưởng 40% so với năm 2018.
Lĩnh vực thanh toán số, Viettel từng bước hoàn thiện hệ sinh thái ViettelPay, đã kết nối mở rộng hệ sinh thái với trên 300 đối tác bên ngoài thuộc 15 ngành dịch vụ, dòng tiền phát sinh trung bình hàng tháng đạt 50.000 tỷ đồng với 40 triệu lượt giao dịch. Viettel cũng đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện triển khai dịch vụ Mobile Money ngay khi được cấp phép.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, Viettel đã xây dựng được hệ sinh thái sản phẩm về an ninh mạng, cung cấp dịch vụ cho Chính phủ/Bộ/Ngành, doanh nghiệp lớn…
Phía tập đoàn này cũng cho biết đã đạt được nhiều kết quả trong nghiên cứu sản phẩm quân sự công nghệ cao, làm chủ được nhiều công nghệ mới, có nhiều bước tiến quan trọng trong nghiên cứu phát triển trạm BTS và chip cho 5G…
Với kết quả trên, năm 2020, bên cạnh việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, Viettel sẽ thử nghiệm thiết bị hạ tầng mạng viễn thông 5G do đơn vị này nghiên cứu, sản xuất trên mạng lưới tại Việt Nam; đẩy mạnh tăng trưởng thuê bao 4G (với 10 triệu thuê bao tăng thêm, trong đó có 80% thuê bao 3G chuyển dịch lên 4G); triển khai cung cấp dịch vụ Mobile Money…/.
Theo Minh Sơn/Vietnamplus
Lo ngại khi doanh nghiệp FDI chỉ vay vốn ngân hàng ngoại
Việc quản lý chặt hoạt động vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là rất cần thiết do hoạt động chuyển giá của các tập đoàn đa quốc gia ở Việt Nam thời gian qua diễn biến rất phức tạp.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giám sát rất chặt chẽ hoạt động vay nợ của doanh nghiệp FDI để kiểm soát nợ quốc gia.
Nhà đầu tư ngoại đòi "mở" hơn nữa
Tổng hợp các ý kiến gửi tới Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) 2019, một số nhà đầu tư nước ngoài bày tỏ mong muốn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có cơ chế thoáng hơn trong quản lý hoạt động vay nợ nước ngoài.
Đại diện Công ty TNHH Vina Pioneer Industrial và Công ty TNHH Pioneer Plastic Industrial cho hay, doanh nghiệp này đăng ký vay vốn nước ngoài, song đã bị NHNN từ chối vì cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (theo Thông tư 03/2016/TT-NHNN). Đại diện doanh nghiệp cho rằng, không nên phân biệt cư trú hay không cư trú tại Việt Nam.
Hơn nữa, hiện hàng loạt chi nhánh hoặc công ty Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam vẫn có quyền vay vốn từ công ty mẹ. Vì vậy, chính sách trên tạo ra sự thiếu công bằng. Doanh nghiệp trên kiến nghị NHNN cân nhắc thay đổi.
Liên quan đến chuyện vay vốn của doanh nghiệp FDI, Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc đề nghị: "Để các công ty Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam ổn định, sự cung cấp vốn từ các ngân hàng Hàn Quốc là rất cần thiết. Do doanh nghiệp mới đầu tư chưa có kết quả kinh doanh, nên phải sử dụng khoản vay bằng tín dụng hoặc tài sản của công ty mẹ và muốn nhận thông tin địa phương cùng tư vấn tài chính từ các ngân hàng của Hàn Quốc. Chúng tôi rất mong NHNN hỗ trợ để các ngân hàng của Hàn Quốc mở chi nhánh và thành lập pháp nhân tại Việt Nam".
Ngoài ra, Nhóm công tác Đầu tư và Thương mại băn khoăn khi NHNN yêu cầu đăng ký khoản vay và coi đây là một trong những điều kiện để chấp thuận cho vay. Họ cho rằng, các yêu cầu này vô tình làm phong tỏa nguồn vốn. Cụ thể, quy trình đăng ký chậm đã làm ảnh hưởng đến các nghĩa vụ thanh toán của doanh ngiệp, khiến doanh nghiệp không thể trả gốc, trả lãi cũng như gia hạn khoản vay.
Vì vậy, nhóm công tác kiến nghị NHNN thay đổi theo hướng đăng ký chỉ để phục vụ mục đích thông tin, thay vì để xin cấp phép. Ngoài ra, tại bất kỳ thời điểm nào trước, trong hoặc sau khi một khoản vay cụ thể được đăng ký, các doanh nghiệp cần có quyền được chuyển tiền liên quan tới các khoản vay đó, nếu mối quan hệ giữa bên nhận và nguồn gốc của nguồn tiền có thể được xác định và mục đích của việc chuyển tiền được làm rõ, trừ phi có nghi vấn chuyển tiền phục vụ mục đích phi pháp...
Mở toang quản lý ngoại hối, khó giám sát được hoạt động chuyển giá
Một chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng cho hay, không chỉ Việt Nam, mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giám sát rất chặt chẽ hoạt động vay nợ của doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp FDI để kiểm soát tổng thể nợ quốc gia.
Tại Việt Nam, hàng năm, trên cơ sở tính toán tổng thể nợ quốc gia, Thủ tướng Chính phủ sẽ phê duyệt hạn mức các khoản vay không được Chính phủ bảo lãnh để tổng hạn mức nợ không vượt mức cho phép. Hoạt động tự vay, tự trả nước ngoài của doanh nghiệp, nhất là các khoản vay trung, dài hạn... phải căn cứ vào hạn mức này.
Hơn nữa, việc kiểm soát hoạt động vay nợ nước ngoài còn nhằm hạn chế tình trạng vốn mỏng của doanh nghiệp FDI. Việc phân biệt cá nhân cư trú hay không cư trú tại Việt Nam không thể bỏ, bởi đây là căn cứ để cơ quan quản lý xác định các giao dịch chuyển tiền trong nước và ngoài nước.
Ở góc độ tài chính, nhiều chuyên gia cho rằng, quản lý chặt chẽ hoạt động vay vốn của doanh nghiệp FDI là rất cần thiết, do hoạt động chuyển giá của các tập đoàn đa quốc gia ở Việt Nam thời gian qua diễn ra rất phức tạp, chủ yếu qua hình thức cho vay giữa các thành viên trong tập đoàn.
GS-TS. Phạm Thế Anh, Chuyên gia kinh tế trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và Chính sách (VEPR) chỉ ra rằng, các công ty FDI, các công ty đa quốc gia ở Việt Nam thường sử dụng "chiêu" vay vốn để né thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trường hợp tiêu biểu trước đây là, công ty 100% vốn Hàn Quốc Keangnam - Vina vay vốn từ Kookmin Bank (đều thuộc Tập đoàn Keangnam) với lãi suất 12%/năm (lãi suất cho vay của các ngân hàng trong nước khi đó là 5-7%/n/ăm), chi phí dàn xếp vốn lên tới trên 2.000 tỷ đồng. Nhờ khoản vay này, Kangnam liên tục báo lỗ để không phải nộp thuế thu nhập ở Việt Nam.
Trên thực tế, xét về mặt công nghệ cũng như sản phẩm, dịch vụ, nhiều ngân hàng Việt Nam không hề thua kém các ngân hàng thế giới, hoàn toàn có thể đáp ứng mọi nhu cầu của doanh nghiệp FDI.
Nhiều ý kiến cho rằng, các doanh nghiệp FDI hưởng rất nhiều chính sách ưu đãi ở Việt Nam, song lại chỉ "chơi" với ngân hàng ngoại là rất đáng lo.
Cần có quy định yêu cầu doanh nghiệp FDI sử dụng dịch vụ của ngân hàng nội
Theo ông Nghiêm Xuân Thành, Chủ tịch HĐQT Vietcombank, hầu hết các sản phẩm lõi như thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, vay vốn, gửi tiền... đều được doanh nghiệp FDI giao dịch với các ngân hàng ngoại đặt tại Việt Nam, trong khi công nghệ, sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng nội không hề thua kém. NHNN cần có quy định yêu cầu doanh nghiệp FDI sử dụng dịch vụ của ngân hàng nội địa tương ứng với tỷ lệ nội địa hóa và các ưu đãi của Chính phủ.
Thùy Liên
Theo baodautu.vn
Doanh nghiệp bất động sản rơi rụng: Ai có thực lực? Yếu tố tích cực của việc nhiều doanh nghiệp bất động sản rơi rụng khỏi thị trường là nó giúp sàng lọc, doanh nghiệp có thực lực sẽ tồn tại. Theo Cục Đăng ký quản lý kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm 2019, ngành kinh doanh bất động sản ghi nhận số lượng doanh nghiệp đăng ký tạm dừng hoạt...