Tăng tiểu cầu có nguy hiểm không?
Tiểu cầu được hình thành trong tủy xương cùng với các loại tế bào máu khác. Bệnh tăng tiểu cầu (hay bệnh đa tiểu cầu) là tình trạng tăng số lượng tiểu cầu trong máu vượt quá mức cho phép.
Thế nào gọi là tăng tiểu cầu?
Số lượng tiểu cầu thông thường ở mức 150 – 450 G/L máu toàn phần. Khi số lượng lớn hơn 450 G/L được gọi là tình trạng tăng tiểu cầu (thrombocytosis), ít hơn 150 G/L thì được gọi là tình trạng giảm tiểu cầu (thrombocytopenia). Số lượng tế bào máu nhỏ này bình thường ở mỗi người không giống nhau. Sự khác biệt còn tùy vào các yếu tố như trạng thái tâm lý, độ tuổi, giới tính, chủng tộc… hay thiết bị làm xét nghiệm.
Tiểu cầu được hình thành trong tủy xương cùng với các loại tế bào máu khác.
Tăng tiểu cầu gặp trong bệnh tăng tiểu cầu vô căn, bạch cầu mạn dòng tủy, xơ hóa tủy xương, sau phẫu thuật cắt bỏ lách, sau mất máu cấp… Giảm tiểu cầu gặp trong bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch, lupus ban đỏ hệ thống, sau nhiễm siêu vi (sốt xuất huyết Dengue, HIV, HBV, HCV…), sau truyền máu, đông máu nội mạch rải rác, cường lách, điều trị thuốc hóa trị liệu, suy tủy xương, bệnh lý ác tính tại tủy (bạch cầu cấp, đa u tủy xương…), bệnh lý ác tính di căn hoặc xâm lấn tủy xương…
Phân loại tiểu cầu
Có 2 loại tăng tiểu cầu, đó là:
Tăng tiểu cầu nguyên phát
Trong tình trạng này, các tế bào gốc trong tủy xương bị bất thường và tạo ra quá nhiều tiểu cầu. Nguyên nhân gây ra điều này thường không được biết rõ, quá trình diễn ra mà không ảnh hưởng đến các tế bào máu khác.
Có một dạng tăng tiểu cầu nguyên phát hiếm gặp mang tính di truyền. Trong một số trường hợp, đột biến di truyền gây ra tình trạng đó. Trong tăng tiểu cầu nguyên phát, các tiểu cầu không bình thường. Chúng có thể dưới hình thức huyết khối, hoặc ngược lại, gây chảy máu khi hoạt động không đúng mức.
Chảy máu còn có thể xảy ra do một bệnh lý gọi là bệnh von Willebrand. Tình trạng này ảnh hưởng đến quá trình đông máu. Sau nhiều năm, bệnh có thể diễn tiến đến tình trạng tủy xương bị xơ hóa.
Tăng tiểu cầu thứ phát
Tăng tiểu cầu thứ phát xảy ra khi một bệnh lý, một điều kiện, hoặc một tác nhân ngoại lai làm gia tăng số lượng tiểu cầu. Ngược lại với tăng tiểu cầu nguyên phát, các tiểu cầu trong tăng tiểu cầu thứ phát thường là bình thường.
Những điều kiện hay yếu tố có thể gây tăng tiểu cầu trong một số trường hợp như:
Thiếu máu thiếu sắt
Thiếu máu tán huyết
Video đang HOT
Ung thư
Viêm hoặc các bệnh truyền nhiễm như bệnh mô liên kết, bệnh viêm loét đại tràng, và bệnh lao
Phản ứng với thuốc nào đó
Một số điều kiện có thể dẫn đến tăng tiểu cầu trong thời gian ngắn gồm:
Phục hồi sau mất máu nghiêm trọng
Phục hồi từ tình trạng giảm nặng tiểu cầu do sử dụng quá nhiều rượu và thiếu vitamin B12 hay folate…
Tăng tiểu cầu thứ phát xảy ra khi một bệnh lý, một điều kiện, hoặc một tác nhân ngoại lai làm gia tăng số lượng tiểu cầu.
Sự nguy hiểm khi tăng tiểu cầu
1. Gây huyết khối (cục máu đông)
- Trong tăng tiểu cầu nguyên phát, cục máu đông thường phát triển ở não, tay và chân. Nhưng chúng cũng có thể xảy ra ở bất cứ vị trí nào trong cơ thể, kể cả ở tim và ruột.
- Cục máu đông ở não gây tai biến mạch não ra các triệu chứng đối với 25% số bệnh nhân. Triệu chứng thường gặp là đau đầu và chóng mặt mãn tính. Có thể xảy ra đột quỵ trong những trường hợp nghiêm trọng.
- Cục máu đông trong mạch máu nhỏ khiến tay chân tê và đỏ. Điều này có thể dẫn đến cảm giác rát bỏng dữ dội và đau nhói chủ yếu ở lòng bàn tay và lòng bàn chân.
- Các dấu hiệu và triệu chứng của cục máu đông có thể bao gồm: Cục máu đông hình thành trong nhau thai gây chết bào thai hoặc sẩy thai trong 1/2 số thai phụ có tăng tiểu cầu nguyên phát. Cục máu đông không chỉ liên quan với tăng tiểu cầu, mà còn với những yếu tố khác. Tuổi> 60, tiền sử huyết khối, đái tháo đường, tăng huyết áp, hút thuốc lá cũng tăng nguy cơ hình thành cục máu đông.
2. Gây xuất huyết
Dấu hiệu của chảy máu bao gồm chảy máu cam, bầm tím xuất huyết, chảy máu từ miệng hoặc nướu răng, hoặc phân có máu. Mặc dù xuất huyết thường đi kèm với tiểu cầu thấp, nó cũng có thể xảy ra ở những người có số lượng tiểu cầu cao.
Cục máu đông hình thành ở những trường hợp tăng tiểu cầu có thể sử dụng hết lượng tiểu cầu của cơ thể. Điều này có nghĩa là không còn đủ tiểu cầu trong máu để hàn gắn lại bất kỳ dấu vết cắt đứt hoặc tổn thương của các mạch máu.
Những điều cần lưu ý khi mắc bệnh tăng tiểu cầu
Khi bạn được chẩn đoán tăng tiểu cầu, bạn cần chú ý một số điều dưới đây:
Đi khám bệnh thường xuyên.
Ngừng hút thuốc lá và kiểm soát các yếu tố nguy cơ hình thành cục máu đông, như tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng cholesterol trong máu…
Theo dõi những dấu chứng của huyết khối và chảy máu và báo cáo ngay cho bác sĩ.
Dùng các loại thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ.
Tuân thủ hướng dẫn điều trị của bác sĩ, tái khám định kỳ.
Tập thể dục thường xuyên như đi bộ, bơi lội; tránh các môn thể thao va chạm mạnh.
Ngưng hút thuốc lá.
Duy trì cân nặng của bạn ở mức bình thường.
Kiểm soát huyết áp, mỡ máu, đường huyết nhằm giảm nguy cơ huyết khối.
Báo với bác sĩ điều trị nếu bạn cần thực hiện thủ thuật hoặc phẫu thuật hoặc kê các loại thuốc làm tăng tiểu cầu.
Mất máu cấp, người bệnh được cứu sống kỳ tích
Các bác sĩ Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vừa cấp cứu kịp thời bệnh nhân nguy kịch do mất máu nhiều trên nền bệnh thiếu máu, tụt huyết áp.
Các bác sĩ tiến hành can thiệp cấp cứu bệnh nhân.
Bệnh nhân nam 75 tuổi, ở Đông Anh, Hà Nội, vào viện ngày 24/4. Bệnh nhân có tiền sử mắc nhiều bệnh nền: thiếu máu tan máu, xơ gan, tăng huyết áp, nhất là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhiều năm. Bệnh nhân thường xuyên đi bệnh viện, sử dụng các thuốc hỗ trợ.
3 giờ sáng ngày 24/4, bệnh nhân nôn ra ít máu đen nhưng sau 2 tiếng bệnh nhân nôn máu lần nữa, lần này số lượng gần 1 lít máu đen lẫn máu cục, người nhợt nhạt. Bệnh nhân được gia đình đưa vào Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cấp cứu trong tình trạng nguy kịch, mất máu nhiều trên nền bệnh thiếu máu, tụt huyết áp, phải truyền máu số lượng lớn để duy trì huyết áp.
Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Trọng, Trưởng Khoa Ngoại gan mật-tiêu hóa và ung bướu - một trong những phẫu thuật viên chia sẻ, khi thực hiện nội soi thực quản-dạ dày, các bác sĩ thấy có một ổ loét lớn ở vị trí 1/3 dưới thực quản gây ra chảy máu. Do vị trí và tính chất ổ loét rất khó can thiệp cầm máu hiệu quả qua nội soi và sau đó tình trạng chảy máu tiếp tục tiến triển nặng hơn, lần này ra máu đỏ tươi, ồ ạt, số lượng lớn.
"Bệnh nhân trong tình trạng vô cùng nguy hiểm vì mất máu cấp. Chúng tôi lập tức hội chẩn đa chuyên khoa, một mặt tích cực hồi sức, thở máy, truyền máu, truyền dịch và duy trì các thuốc để giữ được huyết áp, đồng thời can thiệp ngoại khoa khẩn cấp để cầm máu", bác sĩ Trọng cho biết.
Bệnh nhân được chuyển vào phòng mổ cấp cứu trong tình trạng mạch huyết áp không ổn định. Gia đình bệnh nhân được các bác sĩ giải thích về tình trạng bệnh và nguy cơ có thể xảy ra trong và sau mổ (kể cả tử vong trên bàn mổ).
Tại phòng mổ, các phẫu thuật viên tiến hành đường mở bụng theo đường trắng trên và dưới rốn với tình trạng gần như không chảy máu (không còn máu) chủ yếu là dịch nước trắng.
Bệnh nhân hồi phục sức khỏe.
Các bác sĩ tiến hành mở đường bụng với tình trạng dạ dày chướng căng trong chứa toàn bộ máu loãng và máu cục với lượng máu ước tính trong dạ dày khoảng gần 3 lít kèm thêm 1 số đã xuống đến đường tiêu hóa dưới gây chướng căng các quai ruột. Gan 2 thùy xơ nhẹ, nhợt trắng. Bệnh nhân được tiến hành nhanh chóng kiểm soát các nguồn mạch cấp máu cho đoạn thực quản dưới (nơi nguyên nhân chảy máu chính).
Sau đó, các bác sĩ đã tổ chức phối hợp kịp thời nội soi thực quản ống mềm (khoa thăm dò chức năng) chuyển ngay một dàn nội soi lên nhà mổ để soi trực tiếp trong lúc phẫu thuật, xác định đoạn thực quản còn lại không còn tổn thương.
Các bác sĩ nhanh chóng là sẽ cắt dạ dày cực trên kèm thực quản đoạn dưới (kèm theo ổ loét), tạo hình lại dạ dày (nối dạ dày-thực quản), mở thông hỗng tràng để nuôi dưỡng (giảm chi phí điều trị sau khi hồi phục sau mổ).
Sau khi kiểm soát nguồn mạch cấp máu cho thực quản nhưng do tình trạng mất máu cấp và nhiều, dù đã được truyền máu bổ sung và dịch cao phân tử nhưng huyết áp có đôi khi vẫn xuống thấp.
Vì vậy, một ê-kíp các bác sĩ Hồi sức tích cực đã được huy động phối hợp cùng ê-kíp gây mê để giúp cho bệnh nhân duy trì huyết áp ổn định, bảo đảm cho cuộc mổ diễn ra thuận lợi...
Sau phẫu thuật, bệnh nhân đã kiểm soát hoàn toàn tình trạng chảy máu. Các ngày sau, tình trạng suy đa cơ quan do mất máu nhiều cũng dần hồi phục. Bệnh nhân dần hồi tỉnh, rút được ống thở, duy trì các thuốc tim mạch và hô hấp, tình trạng bệnh nhân dần ổn định, vết mổ phục hồi tốt, không rò miệng nối. Chiều ngày 9/5, bệnh nhân đã được xuất viện và tiếp tục theo dõi quản lý bệnh nền.
Để tránh các trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Trọng khuyến cáo, bệnh nhân thường xuyên có các biểu hiện đau rát thượng vị, ợ hơi, ợ chua, hoặc tiền sử viêm dạ dày, loét dạ dày, trào ngược dạ dày thực quản mạn tính nên nội soi dạ dày tá tràng định kỳ đánh giá mức độ loét và có hướng can thiệp phù hợp.
Ngoài ra, việc khám định kỳ còn giúp tầm soát sớm các ung thư đường tiêu hóa. Nếu bệnh nhân có biểu hiện nôn ra máu hoặc đại tiện phân đen cần nhập viện ngay để quản lý sớm, tránh nguy cơ biến chứng nặng.
AstraZeneca thừa nhận vaccine COVID-19 có thể gây tác dụng phụ hiếm gặp dẫn đến cục máu đông "Gã khổng lồ" dược phẩm AstraZeneca lần đầu tiên thừa nhận rằng vaccine COVID-19 của hãng này có thể gây ra tác dụng phụ hiếm gặp có khả năng dẫn đến đông máu, tử vong. (Ảnh: Getty) Hãng dược phẩm AstraZeneca đang phải đối mặt với một vụ kiện tập thể trong đó cáo buộc rằng vaccine của công ty này - được...