Tác dụng của cây thuốc có tên gọi lạ lùng ‘chó đẻ răng cưa’
Cây thuốc dân dã dùng chữa bệnh gan có tên gọi bắt nguồn từ quan sát hằng ngày của người dân.
Cây chó đẻ răng cưa còn gọi là diệp hạ châu, trân châu thảo, diệp hòe thái, lão nha châu thuộc họ thầu dầu.
Tên gọi của cây bắt nguồn từ câu chuyện người dân thấy chó mẹ sau khi đẻ con thường đi tìm ăn loại cây này. Đây là dạng cỏ mọc cao chừng 30cm, lá so le, phiến lá thuôn dài 5-15mm, mép hơi có răng cưa rất nhỏ.
Khi ra quả, dưới lá có hàng dài các hạt tròn nhỏ do đó cây còn có tên là diệp hạ châu nghĩa là hạt dưới lá.
Cây chó đẻ răng cưa đã được ghi nhận công dụng với bệnh gan. Ảnh: Housing
Cây mọc hoang khắp các nước vùng nhiệt đới bao gồm Việt Nam. Người dân hái cây về làm thuốc quanh năm, tốt nhất vào mùa hạ. Hiện một số nơi đã trồng cây thuốc này để làm dược liệu, chỉ loại thân đỏ mới có khả năng chữa bệnh.
Video đang HOT
Cây chó đẻ răng cưa có vị đắng, hơi ngọt, tính mát, có khả năng thanh can nhiệt, lợi tiểu, lương huyết, giải độc, sát trùng. Người dân rất hay dùng cây chữa đinh râu, mụn nhọt, bệnh gan, sốt, đau mắt.
Theo cuốn Những cây thuốc và vị thuốc của Việt Nam, Giáo sư Đỗ Tất Lợi cho biết Viện Vi trùng Việt Nam từng nghiên cứu tác dụng kháng sinh của chó đẻ răng cưa thấy đạt hiệu quả với tụ cầu trùng, coli, typhi, sonnei…
Các nghiên cứu được thực hiện tại Nhật Bản và Ấn Độ thu được hoạt chất trong cây chó đẻ răng cưa là phyllantin, triacontanal và hypophyllantin có tác dụng điều trị viêm gan, gan nhiễm mỡ.
Theo thông tin của Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TPHCM), nhiều năm trở lại đây, thế giới và Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về tác dụng trị bệnh của cây chó đẻ răng cưa bao gồm bệnh lý gan mật. Với liều dùng 900mg/ngày, bệnh nhân giảm tới 50% lượng virus viêm gan B trong máu giảm sau 1 tháng.
Nghiên cứu quy mô nhỏ đăng trên Lancet cho thấy 22 trong 37 bệnh nhân viêm gan B âm tính sau 30 ngày dùng cây chó đẻ răng cưa. Cây chứa chất chống oxy hóa cao đồng thời có khả năng làm tăng hàm lượng glutathione tại gan, do đó làm giảm hoạt động của các men SGOT, SGPT trong viêm gan cấp.
Dù đây là dược liệu tốt tuy nhiên một số người không nên dùng loại cây này. Vị thuốc có tính mát nên người tỳ vị hư hàn hay lạnh bụng, đầy bụng khó tiêu không nên dùng dễ làm nặng thêm tình trạng tiêu hóa không tốt. Tương tự, phụ nữ có thai cũng tránh loại dược liệu trên do nguy cơ co mạch máu, ảnh hưởng tới thai nhi. Thêm vào đó, tác dụng phụ của cây là gây giảm hồng cầu, hạ huyết áp và tăng nguy cơ suy giảm miễn dịch.
Top 6 loại rau vừa nấu canh hằng ngày vừa làm thuốc chữa bệnh
Các loại rau nấu canh quen thuộc như rau muống, ngót, cải cúc... là dược liệu cho nhiều bài thuốc Đông y.
Cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Giáo sư Đỗ Tất Lợi cung cấp thông tin về hàng trăm cây thuốc. Trong đó có một số loại cũng là rau nấu canh quen thuộc của người dân.
Rau ngót còn gọi là bồ ngót, bù ngót, hắc diện thần thuộc họ thầu dầu. Cây mọc hoang và được trồng khắp Việt Nam để lấy lá nấu canh. Nếu làm thuốc nên chọn những cây đã trồng từ 2 năm trở lên.
Trong 100g rau ngót có 169mg canxi, 2,7mg sắt, 123mg magie, 2,4g mangan, 65mg phốt pho, 25mg natri 25mg... và một số axit amin thiết yếu cho cơ thể.
Theo Đông y, rau ngót tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, tăng tiết nước bọt, bổ huyết, cầm huyết, nhuận tràng, sát khuẩn, tiêu viêm, sinh cơ, chữa sót nhau, tưa lưỡi.
Rau muống được chế biến thành nhiều món ăn hằng ngày. Ảnh: Ban Mai
Rau muống còn gọi là bìm bìm nước thuộc họ bim bìm. Cây mọc bò, ở nước hay trên cạn, thân rỗng, được trồng phổ biến ở khắp nước ta dùng làm rau ăn hằng ngày.
Trong rau muống có 92% là nước, hàm lượng muối khoáng rất cao và có nhiều loại vitamin C, B1, PP, B2.
Ngoài công dụng làm rau ăn sống, luộc, xào, rau muống còn được cho là làm mất tác dụng của những thuốc đã uống, dùng để giải chất độc. Một số người dùng ghi nhận tác dụng nhuận tràng của loại rau này.
Theo nghiên cứu ở Philippines, trong ngọn rau muống có chất giống như insulin - cần cho người mắc bệnh tiểu đường. Rau muống giã nát được dùng trong bài thuốc trị zona, sốt, khó thở.
Rau đay còn gọi là rau nhớt được trồng ở nhiều nơi để lấy lá non nấu canh ăn cho mát và nhuận tràng. Đây còn là cây công nghiệp cho sợi dệt. Trong lá có chất nhầy, tác dụng lợi sữa, chữa ho, táo bón và làm thuốc bổ.
Nghiên cứu ở Ấn Độ ghi nhận chất dầu trong hạt rau đay giống như dầu hạt hướng dương. Chiết xuất từ hạt rau đay được đánh giá có thể chữa bệnh tim.
Mồng tơi còn gọi là lạc quỳ, thuộc họ mồng tơi. Đây là cây dây leo, mọc cuốn có nguồn gốc ở các nước nhiệt đới châu Á và châu Phi. Tại Việt Nam, cây này mọc hoang hoặc được trồng ở hàng rào để lấy rau ăn. Người dân hái thân và lá mồng tơi vào mùa hạ và thu.
Trong mồng tơi có vitamin A, B3, chất nhầy, sắt. Sách cổ ghi nhận rau có tính hàn, lợi tiểu, chữa táo bón cho trẻ nhỏ, phụ nữ đẻ khó. Tại Trung Quốc có nơi dùng rau mồng tơi để giải độc.
Rau dền có nhiều loại với màu sắc khác nhau như dền cơm, dền gai, dền đỏ, thuộc họ na. Cây mọc phổ biến ở nhiều tỉnh có thể dùng lá nấu canh, lá và vỏ làm thuốc. Người dân dùng vỏ cây sắc uống chữa kinh nguyệt không đều, thiếu máu, lá cây sắc uống chữa đau nhức tê thấp, vỏ cây tán bột hoặc ngâm rượu chữa sốt rét, làm thuốc bổ.
Cải cúc còn gọi là rau cúc, tần ô, đồng hao, thuộc họ cúc. Cây được trồng khắp nơi chủ yếu làm rau ăn, số ít làm thuốc (dùng tươi hoặc phơi khô trong mát). Người ta cho rằng cây có nguồn gốc châu Âu và phía bắc châu Á.
Trong cải cúc có tinh dầu thơm, nhiều vitamin B, lượng trung bình vitamin C, có thể dùng trong bài thuốc trị ho lâu ngày, đau mắt, nhức đầu kinh niên, thổ huyết.
Các loại thuốc điều trị bệnh võng mạc Bác sĩ sẽ xây dựng phác đồ điều trị các bệnh võng mạc tùy thuộc vào tình trạng mỗi bệnh và tình hình sức khỏe của mỗi bệnh nhân. Bệnh nhân cần tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ để đạt kết quả điều trị cao, tránh biến chứng của bệnh và tác dụng phụ của thuốc. 1. Danh mục thuốc điều...