Suýt làm Thủ tướng Việt Nam cộng hòa
“Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi” – lời ông Nguyễn Cao Kỳ nói với Thanh Niên.
Năm 1962, sau khi thôi làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa, sang Mỹ học một khóa quân sự cao cấp, Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống. Thời gian này mối quan hệ giữa ông với ông Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang càng thân thiết. Với sức thuyết phục mạnh mẽ của một nhà quân sự vừa có trình độ, vừa chân thành vốn có, ông được nhiều sĩ quan có tinh thần dân tộc ngưỡng mộ.
Phạm Ngọc Thảo (giữa) chỉ huy đảo chính – Ảnh: LIFE
Trong những năm 1962 – 1963, giữa lúc phong trào Đồng khởi lan rộng ở nông thôn, chính trường miền Nam Việt Nam trở nên rối ren. Gia đình họ Ngô vừa cai trị độc tài, vừa muốn thoát khỏi sự can thiệp của người Mỹ, tình hình này khiến cho phong trào đấu tranh của quần chúng ở đô thị dâng cao. Người Mỹ thì muốn gạt bỏ gia đình họ Ngô để thay vào đó giới lãnh đạo thân Mỹ nhằm biến miền Nam thực sự là một tiền đồn chống cộng. Biết trước sau gì gia đình họ Ngô cũng bị người Mỹ lật đổ để dựng lên một chính quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu “cải sửa” chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ. Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ, Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm lãnh sự ở Ai Cập. Ngô Đình Nhu không tin Phạm Ngọc Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin ông Thảo phản bội, thứ hai là ông Thảo “không có quân”. Thực ra lúc đó ông Thảo đã được nhiều sĩ quan chỉ huy ở Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, một số đơn vị biệt động quân, bảo an hậu thuẫn. Cuộc đảo chính không thành chủ yếu do thành phần đảo chính không phải là những người mà người Mỹ có thể nắm được.
Và như chúng ta đã biết, ngày 1.11.1963, một nhóm tướng lĩnh do Mỹ bật đèn xanh, đã tiến hành đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Anh em ông Diệm, ông Nhu bị chết thảm. “Hội đồng quân nhân cách mạng” (HĐQNCM) do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền. Phạm Ngọc Thảo dù không chủ động tham gia cuộc đảo chính này, vẫn được HĐQNCM cử làm tùy viên báo chí, sau đó được cử sang Mỹ tu nghiệp. HĐQNCM cầm quyền được 2 tháng, đã bị tướng Nguyễn Khánh và tướng Trần Thiện Khiêm 2 lần “chỉnh lý”, thâu tóm mọi quyền lực.
Lên cầm quyền, Nguyễn Khánh rút Phạm Ngọc Thảo về nước, cử làm giám đốc báo chí, phát ngôn viên chính phủ, lúc này ông đã được thăng đại tá. Mâu thuẫn giữa các tướng lĩnh trong giới cầm quyền ngày càng gay gắt, Nguyễn Khánh tiếp tục loại Trần Thiện Khiêm, đưa ông tướng này đi làm đại sứ tại Mỹ. Phạm Ngọc Thảo cũng được đưa sang Mỹ làm tùy viên văn hóa, quân sự vào đầu tháng 10.1964. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định cư ở Mỹ cho đến ngày nay). Tuy nhiên, sau đó do nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo, nên cuối năm 1964, Nguyễn Khánh ra lệnh triệu hồi Phạm Ngọc Thảo về nước, với ý đồ sẽ bắt ông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phạm Ngọc Thảo đã khôn khéo không về đúng giờ bay dự định nên thoát. Có mặt ở Sài Gòn, ông bí mật móc nối tổ chức lực lượng, kéo tướng Lâm Văn Phát và hàng chục sĩ quan khác tiến hành cuộc đảo chính ngày 19.2.1965.
Video đang HOT
Điều kỳ lạ là lúc đó Phạm Ngọc Thảo, tuy là đại tá nhưng không cầm quân và đang bị Nguyễn Khánh truy bắt, lại có thể tổ chức và chỉ huy một lực lượng không dưới một sư đoàn làm binh biến (gồm các đơn vị thiết giáp với 45 xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương quân, lực lượng của Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh). Cuộc binh biến do tướng Lâm Văn Phát cầm đầu về danh nghĩa, còn thực tế do Phạm Ngọc Thảo tổ chức và chỉ huy, sau này người ta gọi ông là “Tư lệnh hành quân 19.2″.
Chỉ trong 1 ngày, lực lượng đảo chính đã chiếm Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô (trại Lê Văn Duyệt), Đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Đáng tiếc là do một số sơ sót trong hợp đồng tác chiến, Nguyễn Khánh đã được Tư lệnh Không quân lúc đó là Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát.
Chúng tôi có dịp gặp ông Nguyễn Cao Kỳ năm 2008. Hỏi về sự kiện này, ông Nguyễn Cao Kỳ nói: “Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi”. Ngẫm nghĩ một hồi, ông Kỳ nhớ lại: “Cuộc đảo chính diễn ra bất ngờ đến mức tôi không kịp mặc áo, chỉ mặc may ô chui hàng rào thép gai ra lấy máy bay chạy về Biên Hòa. Sau đó ông Thảo lên Biên Hòa gặp tôi, cùng đi có một đại tá Mỹ. Ổng thuyết phục tôi ủng hộ quân đảo chính. Nói thật là tôi không ưa gì Nguyễn Khánh, nhưng quân đội đánh nhau tôi không đồng ý. Tôi bảo các anh phải cho quân về ngay doanh trại, đến 5 giờ chiều mà không rút quân tôi sẽ cho máy bay ném bom”. Đó là lý do khiến cuộc đảo chính thất bại.
Tuy nhiên, Nguyễn Khánh cũng bị loại. Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và một số tướng lãnh được sự hậu thuẫn của người Mỹ đã lựa gió phất cờ, họp Hội đồng tướng lãnh buộc Nguyễn Khánh từ chức và trục xuất ông này ra nước ngoài với danh nghĩa là “đại sứ lưu động”, cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính, ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát cùng 13 sĩ quan “đầu sỏ” tham gia đảo chính trong vòng 24 giờ phải ra trình diện. Phạm Ngọc Thảo, tướng Lâm Văn Phát, trung tá Lê Hoàng Thao (Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46) bỏ trốn.
Tháng 6.1965, Hội đồng tướng lĩnh giải tán chính phủ dân sự của Phan Huy Quát, đưa tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia (tương đương quốc trưởng), tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (tương đương thủ tướng). Chính quyền Thiệu – Kỳ lập tòa án quân sự để xử những người tham gia đảo chính. Phạm Ngọc Thảo bị kết án tử hình vắng mặt, chúng treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt được ông.
Lúc này tuy ông phải lẩn tránh sự truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn. Ông liên lạc với ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt gặp ông và gợi ý ông ra chiến khu cho an toàn, có thể dẫn theo tiểu đoàn này với danh nghĩa binh biến ly khai. Tuy nhiên, ông cho biết ông vẫn còn có khả năng tổ chức đảo chính để ngăn chặn chính quyền quân phiệt rước quân viễn chinh Mỹ vào gây tội ác. Ông Võ Văn Kiệt đồng ý.
Phạm Ngọc Thảo tiếp tục hoạt động bí mật ở Sài Gòn, cho xuất bản tờ “Việt Tiến” để tập hợp lực lượng. Ông được các giám mục, linh mục, giáo dân Công giáo cùng nhiều bạn bè trong và ngoài quân đội giúp đỡ, bảo vệ.
Còn Nguyễn Văn Thiệu, sau khi lên nắm chính quyền, thấy rõ Phạm Ngọc Thảo là mối đe dọa nguy hiểm đến vị trí quyền lực của mình, nên quyết tìm mọi cách tiêu diệt ông để trừ hậu họa. ( còn tiếp)
Theo TNO
Bị cách mạng ám sát
Ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ...
Hành động của Phạm Ngọc Thảo tại Bến Tre như thả tù chính trị và khôn khéo lái các cuộc hành quân tảo thanh vào chỗ không người đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn lực lượng cách mạng, tạo điều kiện mở rộng cuộc Đồng khởi ở miền Nam. Nhưng đó là nhận định sau này, khi đã biết Phạm Ngọc Thảo là người của ta. Còn lúc đó, nhận định của Tỉnh ủy Bến Tre thì hoàn toàn ngược lại.
Ám sát ông Thảo là làm thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là có nội gián của địch trong công binh xưởng lúc kiểm tra lựu đạn
Chúng tôi đã gặp một trong hai người trực tiếp ném lựu đạn giết Phạm Ngọc Thảo. Đó là ông Đặng Quốc Tuấn (Sáu Tuấn), sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, rồi làm Giám đốc Đài phát thanh - truyền hình tỉnh Bến Tre cho đến khi về hưu. Người kia là ông Ngô Văn Thiều đã qua đời.
Hôm đó là ngày Quốc khánh VNCH 26.10.1961, một cuộc mít tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội, ngay đầu cầu Bến Tre 1 chợ Vườn Hoa bây giờ. Người giao nhiệm vụ là ông Hai Trung, Tỉnh ủy viên phụ trách Thị ủy. Nhiệm vụ ông Hai Trung giao trực tiếp cho ông Thiều, đã thoát ly, cùng 5 trái lựu đạn, 3 trái nội hóa, 2 trái MK2 của Mỹ. Ông Thiều giao nhiệm vụ lại cho ông Sáu Tuấn, lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10). Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, 3 trái kia để ở nhà ông Thiều. Ông Thiều đứng tại vị trí ngay trụ sở Báo Đồng Khởi bây giờ, còn ông Sáu Tuấn đứng cách 10 m. Theo hợp đồng, ông Thiều ném trước, ông Sáu Tuấn ném tiếp theo, ném xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã.
Ông Sáu Tuấn kể: "Sau khi ông Thảo đọc diễn văn, lúc đó khoảng 8 giờ 30, tới phần diễu hành. Tất cả quan khách đứng lên nhìn ra phía diễu hành. Ông Thiều liệng 1 trái, lựu đạn rơi cách ông Thảo 1,5 m, không thấy nổ, tôi liệng tiếp 1 trái cách ông Thảo 5 m rồi bỏ chạy, cũng không nổ luôn. Lúc đó bọn tôi bỏ chạy không để ý, sau giải phóng chị Nhiệm vợ ông Thảo về Bến Tre gặp chúng tôi có nói lại mới biết lúc đó ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn. Tôi chưa biết ông Thiều bị bắt tại chỗ, nên chạy về nhà ông Thiều định lấy tiếp 3 trái còn lại. Rủi cho tôi, tại nhà ông Thiều đã có mật báo dẫn người lên ém, tôi đến bọn chúng giữ lại, chưa bắt ngay. Chúng vô nhà xét, lấy 3 trái lựu đạn và chiếc cặp da đi học tôi để ở nhà ông Thiều, vì cái cặp da có dấu cây súng trước đây tôi để trong cặp, nên tôi bị bắt, bị đánh tại chỗ. Tôi và ông Thiều bị giam riêng. Do không lường trước là bị bắt nên chưa thống nhất cách khai, vì vậy mỗi người nói một phách. 20 ngày sau, khi giam chung mới thống nhất lại".
Phạm Ngọc Thảo lúc làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa - Ảnh: LIFE
Sau khi bị bắt 1 tuần, ông Thảo có gặp hai ông. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi: "Tại sao là học sinh mà đi ám sát tỉnh trưởng ngay tại ngày quốc khánh? Có phải cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?". Trả lời: "Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới cộng sản, không có ai giao việc cả". Ông Thảo dịch như thế nào ông Sáu Tuấn không biết. Ông Thảo chỉ nói với hai ông: "Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm". Lần thứ hai, ông Thảo đến hỏi thăm trước khi đưa về Chí Hòa.
Tháng 3 năm sau, Tòa án quân sự đặc biệt mở phiên tòa xử hai ông theo luật 10/59, một đại tá tên Khoa làm công tố. Do có sự vận động của phong trào yêu nước ở Sài Gòn, nên luật sư Trịnh Đình Thảo đến bào chữa cho hai ông. Tuy nhiên, hai ông tự cãi là chính. Hai ông tố cáo sự tàn bạo của chế độ và dõng dạc nói: "Tụi tôi không phải là Việt cộng, nhưng nếu như được Việt cộng tổ chức làm như vậy tụi tôi cũng tham gia". Hai ông còn lên án phiên tòa vi phạm luật quốc tế, xử vị thành niên chưa tới 18 tuổi, đại tá Khoa rút gươm lệnh ra nói lớn: "18 tuổi là luật cộng sản, Việt Nam cộng hòa xử 13 tuổi". Do những gì cần cãi hai ông đã tự cãi rồi, nên luật sư Trịnh Đình Thảo chỉ đề nghị khoan hồng.
Ông Đặng Quốc Tuấn - Ảnh: Nguyễn Khoa Chiến
Hai ông bị kết án mỗi người 20 năm tù, đưa về Chí Hòa, sau đó đưa ra Côn Đảo, chung một chuyến với những người tù nổi tiếng Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Ngoài Côn Đảo, hai ông đấu tranh, chống chào cờ, được kết nạp Đảng trong tù. Năm 1965, sau khi ông Thảo bị sát hại, bỗng nhiên hai ông được đưa về Chí Hòa, lúc ấy anh em trong tù nhận định hai khả năng, hoặc là được thả hoặc tăng án lên tử hình. Lúc đó 2 ông đã chống chào cờ rồi, về Chí Hòa chúng chỉ yêu cầu hai ông chào cờ, nhưng hai ông dứt khoát không chịu, mà chống chào cờ là tự nhận là cộng sản, nên dù ông Thảo có là cộng sản đi chăng nữa thì tội của hai ông cũng không nhẹ đi được, do đó sau 20 ngày chúng đưa trở lại Côn Đảo. Ông Thiều được thả năm 1973, thoát ly lên chiến khu, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy TP.HCM, qua đời năm 1984 vì bệnh. Còn ông Sáu Tuấn đến ngày giải phóng mới về.
Chúng tôi hỏi ông Sáu Tuấn: "Có phải 2 trái lựu đạn không nổ là do tổ chức bố trí để ám sát giả?". Trả lời: "Không có chuyện đó. Ám sát ông Thảo là làm thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là có nội gián của địch trong công binh xưởng lúc kiểm tra lựu đạn. Sau này ta đã bắt được một ông. Làm cho lựu đạn không nổ rất đơn giản, chỉ cần nhúng sáp đèn cầy vào tim cháy chậm, khi giật lửa cháy lên khiến cho sáp chảy ra bít ngòi nổ". Hỏi: "Tại sao Tỉnh ủy phải quyết giết ông Thảo?". Trả lời: "Mãi sau này mới biết ông Thảo có công lớn, chứ theo nhận định của Tỉnh ủy lúc đó thì khi phong trào Đồng khởi đang lên mà ông Thảo lại thả tù, người mới bắt thì đối xử tử tế, gom vào sân vận động giải thích rồi cho về hết, làm nhụt ý chí chiến đấu của quần chúng. Đó là tên tỉnh trưởng mỵ dân rất nguy hiểm, cần phải trừ khử".
Vì giết ông Thảo mà ông Sáu Tuấn ở tù 14 năm, 17 tuổi vào tù, ra tù 31 tuổi. Bà Phạm Thị Nhiệm thỉnh thoảng về nước đến Bến Tre thăm lại những kỷ niệm xưa, đều thăm ông Sáu Tuấn, bà nói: "Ngày xưa anh Thảo vẫn nhắc đến tụi mày". Các con ông Thảo cũng có về. Ông Tuấn nói con ông Thảo một đứa sinh ở Bến Tre, một đứa khác vừa rồi về cưới vợ, nghe đâu ở An Giang. (còn tiếp)
Theo TNO
Dòng người ùn ùn xem hầm bí mật dưới Hoàng thành Thăng Long Căn hầm là trung tâm chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu, tất cả các sự kiện của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ trên không cuối tháng 12 năm 1972. Clip hầm chỉ huy tác chiến dưới lòng Hoàng thành Thăng Long Hầm Chỉ huy tác chiến - Bộ Tổng tham...