Silicon Valley Bank sụp đổ, lo ngại Lehman Brothers thứ 2?
Silicon Valley Bank (SVB) bị buộc phải dừng hoạt động vào rạng sáng 11/3 và trở thành ngân hàng lớn nhất đóng cửa kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008.
Giới đầu tư lo ngại liệu có một cuộc khủng hoảng giống như sau vụ Lehman Brothers?
Vụ phá sản lớn chưa từng có từ năm 2008
Giới chức California hôm 10/3 (giờ Mỹ) đã đóng cửa SVB và giao lại cho Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Mỹ (FDIC) quản lý. FDIC sẽ thanh lý tài sản ngân hàng để trả cho những người gửi tiền và chủ nợ của SVB.
FDIC cho biết những người có bảo hiểm về tiền gửi sẽ được tiếp cận tới khoản tiền gửi của họ chậm nhất là vào sáng thứ Hai (13/3). Còn với những người gửi tiền không có bảo hiểm, họ sẽ được trả một khoản “cổ tức tạm ứng trong tuần tới”.
Như vậy, nhà băng quản lý cả trăm tỷ USD đã chính thức sụp đổ và cơ quan quản lý tịch thu tài sản để chuẩn bị thanh lý.
Đây là vụ sụp đổ lớn nhất trong ngành ngân hàng kể từ sau khủng hoảng tài chính 2008 và lớn thứ hai trong lịch sử sau vụ Lehman Brothers.
Diễn biến này đang gây áp lực lên thị trường tài chính Mỹ. Giới đầu tư lo ngại nhiều ngân hàng cũng chứng kiến danh mục đầu tư trái phiếu thua lỗ nặng.
Cổ phiếu SVB Financial Group – công ty mẹ của Silicon Valley Bank (SVB) tiếp tục lao dốc trong ngày 10/3. Trước đó, trong phiên ngày 9/3, cổ phiếu SVB đã bất ngờ giảm 60%. Vốn hóa của SBV tụt giả từ 16,8 tỷ USD sau một ngày xuống còn 6,3 tỷ USD.
Silicon Valley Bank (SVB) bị buộc phải dừng hoạt động vào rạng sáng ngày 11/3. (Ảnh: CNN)
Cổ phiếu này sau đó tiếp tục bị bán tháo và bị tạm dừng giao dịch. Hoạt động bán mạnh đã khiến cổ phiếu một số ngân hàng khác như First Republic, PacWest Bancorp và Signature Bank cũng bị tạm dừng giao dịch.
Sự việc tồi tệ bắt đầu diễn ra vào hôm 8/3 sau khi SBV thông báo bán tháo một loạt chứng khoán và phải huy động vốn 2,25 tỷ USD để củng cố bảng cân đối kế toán. Ngân hàng này buộc phải thanh lý danh mục trái phiếu sẵn sàng để bán với khoản lỗ 1,8 tỷ USD. Hoạt động rút tiền đã diễn ra ồ ạt tại SVB.
Bên cạnh đó, thông tin nhà cho vay tập trung vào lĩnh vực tiền số – Silvergate sụp đổ đã tạo ra làn sóng rút tiền khác.
Video đang HOT
Nguồn cơn từ vay ngắn hạn, đầu tư dài hạn
Sự suy yếu của SVB được cho là đến từ các động thái nâng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ( Fed) từ năm 2022, với 8 lần nâng lãi suất với tổng mức tăng 450 điểm (từ 0-0,25% lên 4,5-4,75%/năm như hiện tại). Fed cũng cho biết sẽ mạnh tay nâng lãi suất tiếp.
Trước khi khó khăn xảy ra, SBV có hơn 90 tỷ USD trái phiếu được nắm giữ đến ngày đáo hạn (held-to-maturity). SBV sẽ không phải chịu lỗ trừ khi buộc phải bán ra trước hạn để bù đắp cho số tiền gửi ồ ạt bị rút ra.
SVB được biết đến là một trong những ngân hàng lâu đời và lớn mạnh nhất tại Thung lũng Silicon. Ngân hàng này quản lý phần lớn tiền gửi ở trung tâm công nghệ Mỹ.
Trong năm 2021, lượng tiền rẻ ngập tràn tại Mỹ và cũng như ở Thung lũng Silicon khiến SBV nhận được một lượng lớn tiền gửi từ các start-up công nghệ và đầu tư mạo hiểm (VC). Lượng tiền tăng từ 60 tỷ USD vào đầu năm 2020 lên đến hơn 190 tỷ USD vào đầu năm 2022. Mức tăng trưởng quá nhanh khiến SBV không biết làm gì và tập trung vào mua trái phiếu, trong có nhiều trái phiếu dài hạn.
Áp lực đè lên thị trường tài chính Mỹ sau khi Fed tăng lãi suất 8 lần. (Ảnh: CNBC)
Sở dĩ SBV rơi vào khó khăn do bảng cân đối kế toán của ngân hàng này tăng vọt trong năm 2021. Ngân hàng này đã đổ tiền vào trái phiếu chính phủ Mỹ và các chứng khoán nợ được chính phủ phát hành. Tuy nhiên, việc Fed tăng lãi suất quá nhanh và mạnh đã khiến hàng loạt starup công nghệ cũng như đầu tư mạo hiểm mà SBV tài trợ vốn rơi vào khó khăn.
Lãi suất các khoản vay của SBV thấp hơn nhiều so với lợi suất của trái phiếu kho bạc 10 năm hiện tại của Mỹ. Điều này khiến thị trường lo ngại SVB không còn an toàn. Đây là yếu tố khiến nhiều người ồ ạt rút tiền khỏi SBV.
Rủi ro đã xảy ra khi tiền gửi ngắn hạn đã được đem đi đầu tư dài hạn.
Khi các start-up và VC khó khăn và đồng loạt rút tiền SBV rơi vào khủng hoảng.
CEO của SBV- Greg Becker – trong tuần đã tổ chức một cuộc họp để trấn an khách hàng về tình hình tài chính của ngân hàng và kêu gọi khách hàng không nên rút tiền gửi. Tuy nhiên, tình hình dường như không mấy khả quan.
Nguy cơ khủng hoảng như sau vụ Lehman Brothers
Vụ việc của SBV khiến nhiều người lo ngại một cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong hệ thống tài chính Mỹ giống như sau vụ Lehman Brothers hồi năm 2008 hay vụ Enron năm 2001.
Trong hai phiên 9-10/3, hàng loạt cổ phiếu ngân hàng lớn tại Mỹ đồng loạt bị bán tháo và vốn hóa bốc hơi hàng chục tỷ USD như: First Republic Bank, JPMorgan Chase & Co., Charles Schwab Corp., US Bancorp…
Thị trường chứng khoán Mỹ tụt giảm. Chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm thêm 350 điểm sau khi đã giảm hơn 540 điểm trong phiên liền trước và trượt sâu khỏi khỏi đường bình quân 200 ngày.
Trên CNBC, CEO và Giám đốc đầu tư của Defiance ETFs nhận định SBV là vụ phá sản ngân hàng lớn nhất kể từ năm 2008. Điều này sẽ khiến thị trường hoang mang.
Tuy nhiên, một chuyên gia của Capitalmind cho rằng, SVB không có quy mô như Enron hay Lehman nên lo ngại không quá lớn.
Fed tăng lãi suất: Kịch bản khủng hoảng tài chính châu Á 1997 có lặp lại?
Trong bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục tăng mạnh lãi suất và đồng USD mạnh lên so với các đồng tiền chủ chốt khác, nền kinh tế thế giới có thể đang đối mặt với những điều kiện bất lợi tương tự như trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á hồi năm 1997.
Nhưng các nhà phân tích nhận định lịch sử khó có thể lặp lại, mặc dù họ cảnh báo rằng một số nền kinh tế trong khu vực đặc biệt dễ bị tổn thương bởi tình trạng mất giá tiền tệ - điều gợi nhớ giới quan sát về thời điểm đó.
Trụ sở FED tại Washington, DC, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Một châu Á "khỏe mạnh" hơn
Ngày 21/9 Fed đã tăng lãi suất 75 điểm cơ bản lần thứ ba trong năm nay, nâng lãi suất của nền kinh tế lớn nhất thế giới lên khoảng 3 - 3,25%. Lần cuối cùng Fed tăng mạnh lãi suất như vậy là vào những năm 1990. Khi đó, dòng vốn đã chảy khỏi các nền kinh tế mới nổi ở châu Á sang Mỹ. Đồng baht của Thái Lan nhiều đồng tiền châu Á khác sụp đổ, gây ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và dẫn đến sự lao dốc trên các thị trường chứng khoán khu vực.
Tuy nhiên các nhà phân tích cho biết trong vòng 25 năm qua, các thị trường châu Á mới nổi đã trưởng thành hơn. Nền kinh tế của họ đã lành mạnh hơn và có khả năng chịu áp lực tỷ giá hối đoái tốt hơn.
Ông Louis Kuijs, nhà kinh tế trưởng khu vực châu Á - Thái Bình Dương tại cơ quan xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings, cho rằng chính sách của các thị trường châu Á mới nổi hiện đã mạnh hơn, còn giới hoạch định chính sách cũng đã chuẩn bị tốt hơn. Các ngân hàng trung ương hiện có chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn nhiều, khi họ chủ yếu để tỷ giá "hấp thụ" áp lực bên ngoài thay vì hỗ trợ tiền tệ bằng cách bán dự trữ ngoại hối.
Ngoài ra, các chính phủ châu Á đã theo đuổi nhiều chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng hơn trong những năm gần đây so với trước cuộc khủng hoảng năm 1997.
Tương tự, ông Manishi Raychaudhuri, một chiến lược gia chứng khoán châu Á tại ngân hàng BNP Paribas, cho biết tình hình hiện tại không thể so sánh với những gì các nền kinh tế châu Á phải đối mặt trong cuộc khủng hoảng 1997. Điều này chủ yếu do bảng cân đối kế toán của các nước đã lành mạnh hơn và dự trữ ngoại hối cũng tăng đáng kể. Dự trữ ngoại hối cạn kiệt là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của đồng baht Thái Lan trong cuộc khủng hoảng năm 1997.
Một số nền kinh tế châu Á cũng đang duy trì thặng dư cán cân thanh toán và dự trữ ngoại hối được cải thiện nhờ những nỗ lực như Sáng kiến Đa phương hóa Chiang Mai năm 2010, một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ đa phương giữa các thành viên ASEAN 3, gồm các thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và ba quốc gia Đông Bắc Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Quản lý cấp cao phụ trách thị trường ngoại hối châu Á - Thái Bình Dương và chiến lược gia kinh tế vĩ mô Tan Teck Leng thuộc công ty quản lý tài sản UBS Global Wealth Management cho hay, vì số lượng nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ các loại tài sản châu Á không tăng trong giai đoạn này, bất kỳ cuộc "chảy máu" dòng vốn nào cũng sẽ gây ít tổn hại cho nền tài chính các nước trong khoảng thời gian này.
Đánh giá chung tình hình, ông cho rằng diễn biến hiện thời gợi lại những kỷ niệm đáng quên của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Song chế độ tỷ giá hối đoái hiện thời của các nước đã linh hoạt hơn rất nhiều so với hồi đó. Do vậy, chuyên gia của UBS không nghĩ rằng các nền kinh tế châu Á đang trên đà hướng tới một sự sụp đổ về tiền tệ.
Dù vậy, ông cũng thận trọng nêu rằng tình hình còn phụ thuộc rất nhiều vào thời điểm Fed đạt được mục tiêu và bắt đầu đảo hướng chính sách.
Vẫn có những đồng tiền dễ tổn thương
Hoạt động giao dịch đổi tiền đôla Mỹ tại Tahtakale ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: AFP/TTXVN
Dù lạc quan hơn về tình hình chung của châu Á, ông Tan vẫn chỉ ra rằng có một số đồng tiền đang gặp nhiều rủi ro hơn. Trong số này, đồng peso của Philippines thuộc nhóm dễ bị tổn thương nhất do cán cân vãng lai của nước này khá yếu.
Giữa bối cảnh lãi suất đang tăng cao ở Mỹ, các đồng tiền châu Á sẽ thể hiện sự khác biệt rõ rệt về nguồn vốn huy động được từ bên ngoài. Điều đó khiến đồng nội tệ của các nước như Philippines, Ấn Độ và Thái Lan dễ bị suy yếu trong ngắn hạn nhất ở châu Á.
Ngày 22/9 Ngân hàng trung ương Philippines cũng "nối gót" Fed tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản. Họ cũng báo hiệu rằng sẽ tiếp tục thực hiện các đợt tăng lãi suất tiếp theo. Động thái này sẽ giúp đồng peso Philippines giảm chênh lệch so với đồng USD, qua đó giúp làm giảm rủi ro"chảy máu" vốn và sụp đổ tỷ giá hối đoái.
Trong khi đó, ông Kuijs của S&P Global Ratings cho biết các nền kinh tế có chính sách tiền tệ thích nghi - tức là những nước không tăng lãi suất song hành với Mỹ, chẳng hạn như Nhật Bản - vẫn có thể gặp nguy cơ đồng nội tệ tiếp tục suy yếu hơn nữa.
Ông cảnh báo rằng áp lực giảm giá đối với các đồng tiền châu Á có thể tăng lên, đặc biệt là do kỳ vọng rằng Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất trong nửa đầu năm 2023. Tuy nhiên, ông cũng không cho rằng sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính châu Á khác.
Trong khi đó, ông Vishnu Varathan, người đứng đầu bộ phận kinh tế và chiến lược của ngân hàng Mizuho, cho biết những bất an và nỗi lo trên thị trường có thể đang bị thổi phồng. Tuy nhiên, sự hỗn loạn trên thị trường ngoại hối đối với các nền kinh tế châu Á mới nổi sẽ vẫn còn đáng kể. Nhiều khả năng chúng sẽ dẫn tới những khó khăn tương tự như hồi năm 2013 - khi thị trường phản ứng mạnh mẽ với nỗ lực giảm định lượng của Fed thông qua bán tháo trái phiếu và cổ phiếu.
Theo chuyên gia này, rủi ro tỷ giá hối đoái suy giảm sâu hơn vẫn không thể bị loại bỏ một cách bất cẩn với lối suy nghĩ "lần này sẽ khác trước".
Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ châu Á vẫn còn những mặt tích cực.
Ông Dwyfor Evans, Trưởng bộ phận chiến lược vĩ mô khu vực châu Á - Thái Bình Dương của công ty môi giới đầu tư State Street Global Markets, cho biết đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đang cho thấy khả năng phục hồi tốt, dù nhiều người đã nhắc tới sự yếu đi của đồng tiền này. Theo chuyên gia Evans, đây là một đồng tiền rất ổn định so với rổ các đồng tiền chủ chốt khác.
Tuy nhiên, ông cũng chia sẻ thêm rằng khả năng suy thoái kinh tế ở Trung Quốc vẫn có thể ảnh hưởng đến dòng vốn chảy ra và vào nước này. Điều đó hoàn toàn có thể có tác động đáng kể đến đồng nội tệ của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Lạm phát kèm suy thoái - 'cơn ác mộng' đối với kinh tế Mỹ Lạm phát kèm suy thoái là một "cơn ác mộng" kinh tế - và có thể trở thành một vấn đề thực sự gây đau đầu đối với Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nếu tình trạng đó xuất hiện ở Mỹ. Một phố mua sắm ở New York, Mỹ. Ảnh tư liệu: THX/TTXVN Đó là...