Siêu Uỷ ban đề xuất vay 3 năm, lãi suất 0%: Cẩn trọng tăng nợ xấu cho ngân hàng
Cho vay ưu đãi khu vực DNNN, nếu không có một sự cam kết nào đó giữa Chính phủ và ngân hàng thì rất khó thực hiện. Ngoài ra, rất cần minh bạch về chủ đích và phải rất cụ thể.
Ảnh minh họa.
Dịch cúm Covid-19 ảnh hưởng đến hầu hết các loại hình doanh nghiệp và người dân. Mới đây, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (Siêu Ủy ban) đề xuất về việc cho 19 tập đoàn, tổng công ty tiếp cận gói tín dụng 250.000 tỷ đồng (hiện đã lên tới 285.000 tỷ đồng) hỗ trợ do ảnh hưởng bởi Covid 19 với lãi suất 0% trong thời hạn ít nhất 3 năm.
Siêu Uỷ ban cho biết, dự kiến cả năm 2020, nếu dịch bệnh kéo dài, giá dầu không phục hồi, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty sẽ giảm khoảng 279.767 tỷ đồng so với kế hoạch. Ngoài ra sẽ có 8/19 tập đoàn, cổng công ty bị thua lỗ, tổng số lỗ khoảng 26.326 tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước giảm khoảng 32.836 tỷ đồng so với kế hoạch.
Vậy hiểu thế nào về gói hỗ trợ doanh nghiệp 285.000 tỷ đồng thông qua các ngân hàng thương mại cho vay ưu đãi lãi suất?
Khi các ngân hàng thương mại thực hiện những chương trình hỗ trợ vốn cho các đối tượng, thì từ phía Ngân hàng Trung ương cũng sẽ có các động thái hỗ trợ đối với ngân hàng thương mại thông qua các hình thức: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, hoặc giảm tỷ lệ dữ trự bắt buộc cho các ngân hàng thương mại, mua lại trái phiếu… Nếu có các cam kết như vậy, các ngân hàng thương mại mới có trách nhiệm và cam kết thực hiện các chương trình hỗ trợ theo mục tiêu của Chính phủ, vì các ngân hàng thương mại cũng là các doanh nghiệp.
Video đang HOT
Tuy nhiên, cho vay ưu đãi vẫn là cho vay, nghĩa là có vay phải có trả. Ngân hàng cũng muốn cho vay ưu đãi trúng và đúng chủ trương của Chính phủ. Do đó, cần xem xét những trường hợp yêu cầu được hỗ trợ.
Đối với khối doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), thông qua số liệu của Tổng cục Thống kê công bố trong sách trắng về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cho thấy hệ số vốn/sản lượng (số vốn cần thiết để sản xuất một đơn vị sản lượng) ngày càng tăng, hiệu quả sử dụng vốn ngày càng sút giảm.
Xét về hiệu quả hoạt động kinh doanh của khối này cho thấy, năm 2011, các DNNN cần 1,8 đồng vốn tạo để ra 01 đồng doanh thu thuần, đến năm 2018 tỷ lệ này tăng lên 3,06 đồng vốn mới tạo được 01 đồng doanh thu thuần. Điều này phản ánh những thất thoát, lãng phí, đầu tư vào những công trình không hiệu quả, không làm tăng giá trị tài sản của những chu kỳ sản xuất sau, xây những công trình phúc lợi, công cộng chưa cần thiết…
DNNN sử dụng vốn không hiệu quả nhưng nguy hiểm là nguồn vốn cơ bản là vốn vay. Nợ vay của khối DNNN cao hơn vốn chủ sở hữu rất nhiều. Cụ thể, bình quân giai đoạn 2011 – 2015, trong 100 đồng vốn của khối DNNN chỉ có 25 đồng là vốn chủ sở hữu, 75 đồng là nợ phải trả.
Do đó, tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu bình quân giai đoạn 2011-2015 là 3,02:1. Đến năm 2018, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu là 4,3:1, nghĩa là khối DNNN chỉ có 01 đồng vốn mà đi vay tới 4,3 đồng để hoạt động.
Tách riêng khu vực doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cũng rất cao, năm 2018 tỷ lệ này là 3,2:1, so với tỷ lệ bình quân toàn khối là 4,3:1 ở trên, cho thấy tỷ lệ vay nợ trên vốn chủ sở hữu của khối doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm 100% vốn có mức nợ còn cao hơn, đa phần trong đó là các DNNN không được Nhà nước bảo lãnh, không được xem như nợ công nên nguy cơ rủi ro cho vay cũng rất cao.
Vì thế, cho vay ưu đãi khu vực DNNN, nếu không có một sự cam kết nào đó giữa Chính phủ và ngân hàng thì rất khó thực hiện. Nếu Chính phủ yêu cầu ngân hàng “mở” gói cứu trợ kiểu này đòi hỏi phải rất cần minh bạch về chủ đích và phải rất cụ thể.
Như trên đã nói, các DNNN hiệu quả sử dụng vốn thấp, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu ở mức báo động, nếu cho vay ưu đãi trong 3 năm với lãi suất 0%/năm như đề xuất của Siêu Ủy ban, vậy làm sao hoàn lại số tiền đã vay cho ngân hàng thương mại, giảm nguy cơ gây ra nợ xấu, tránh chồng thêm khó khăn cho ngân hàng ngay cả ở hiện tại và trong tương lai.
MSB: Lợi nhuận quý I/2020 tăng gấp 4 lần nhờ đâu?
Quý I/2020, MSB ghi nhận lợi nhuận trước thuế 289 tỷ đồng, gấp tới 4 lần so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nợ xấu cũng tăng đáng kể.
Ảnh minh họa.
Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam - MSB vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý I/2020. Theo đó, tính đến cuối tháng 3/2020, tổng tài sản của ngân hàng đạt hơn 154,7 nghìn tỷ đồng, giảm 1,41% so với đầu năm.
Trong đó, cho vay khách hàng đạt mức gần 65,7 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 3,3% so với đầu năm trong khi tiền gửi và cho vay các tổ chức tín dụng khác lại giảm tới 18,5%, xuống còn hơn 16,7 nghìn tỷ đồng.
Tiền gửi khách hàng trong kỳ tăng nhẹ 0,81%, lên hơn 81,5 nghìn tỷ đồng.
Về hoạt động kinh doanh, hầu hết các mảng kinh doanh trong kỳ của ngân hàng đều có sự khởi sắc; trong đó, thu nhập lãi thuần đạt gần 894 tỷ đồng, tăng trưởng 47,5% so với quý I/2019.
Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ tăng hơn gấp đôi, lên 121 tỷ đồng. Hoạt động kinh doanh ngoại hối mang về khoản lãi thuần 102 tỷ đồng, so với mức lỗ 9 tỷ đồng cùng kỳ năm trước. Lãi từ mua bán chứng khoán đầu tư tăng 16,7%, đạt 84 tỷ đồng.
Riêng mảng mua bán chứng khoán kinh doanh kỳ này không ghi nhận lợi nhuận trong khi cùng kỳ năm trước vẫn lãi hơn 5 tỷ đồng. Lãi từ hoạt động khác giảm nhẹ 7,6%, xuống còn 61 tỷ đồng.
Chi phí hoạt động trong kỳ tăng 42,8%, lên 894 tỷ đồng trong khi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng lại giảm 19,4%, xuống còn 79 tỷ đồng.
Theo đó, kết thúc quý I/2020, MSB ghi nhận lợi nhuận trước thuế 289 tỷ đồng, gấp tới 4 lần so với con số 73 tỷ đồng cùng kỳ năm trước. Đây cũng là ngân hàng ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng mạnh nhất, tính tới thời điểm hiện tại.
Với kết quả này, ngân hàng đã hoàn thành 20,15% kế hoạch lợi nhuận của cả năm 2020 (1.439 tỷ đồng).
Về chất lượng tín dụng, tại ngày 31/3, MSB đang có hơn 1.432 tỷ đồng nợ xấu, tăng 10,2% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hiện ở mức 2,18% trên tổng dư nợ, so với mức 2,04% hồi đầu năm.
Lãi suất huy động khó giảm sâu NIM ngân hàng sẽ giảm do lợi suất tài sản giảm nhiều hơn chi phí vốn. Lãi suất huy động khó giảm sâu do ngân hàng cần duy trì nguồn vốn huy động dài hạn để đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung/dài hạn.Những ngân hàng có tỷ lệ thâm nhập thấp trong phân khúc bán lẻ và...