Sám hối muộn màng của kẻ hiếp dâm, giết người, cướp của
Một mình nơi buồng giam cách biệt với thế giới, tôi mới hiểu thấm thìa giá trị của tự do, giá trị của sự sống – thứ mà tuổi trẻ tôi ngông cuồng không biết bảo vệ…
Lời bạt: Lưng hắn gù. Hắn đi chúi đầu về phía trước, lộ đôi vai xương xấu, gầy nhẳng, oằn nặng do phải đỡ thêm bộ khung lênh khênh. Hắn bảo, hình dáng đó là tàn tích của một tuổi thơ trĩu nặng, sớm phải lao động để bươn chải kiếm sống. Sinh năm 1990, gương mặt Triệu Văn Đông già hơn rất nhiều so với tuổi, đặc biệt kể từ khi bị tuyên án tử hình về tội cướp của, hiếp dâm, giết người và bị giam cách biệt trong buồng giam riêng của tử tù tại Trại giam T20 thuộc Công an tỉnh Gia Lai, hắn càng thêm già cỗi. Sự khô héo trong tâm hồn của Đông chẳng khác gì một xác cây khô cằn đợi ngày tàn lụi cận kề, Triệu Văn Đông đã có những phút trải lòng về quá khứ, về tuổi thơ, về những điều hắn để vuột mất khỏi tầm tay trong khi tuổi đời đang ở độ tươi đẹp nhất.
Oằn lưng gánh tuổi thơ nhọc nhằn
Theo lời cha mẹ tôi kể lại, quê gốc của chúng tôi là ở Hạ Lang – Cao Bằng, nhưng từ năm 1989, cả nhà tôi đã chuyển vào Đắk Lắk với khao khát xây dựng đời sống kinh tế mới. Từ thuở ấu thơ cho tới khi trưởng thành, mẹ luôn nhắc nhở tôi, dù có đi đâu cũng không được quên gốc tích của mình. Mẹ dạy tôi nhớ tôi là người con của Cao Bằng, là người dân tộc Nùng thứ thiệt. Tôi được “hành hương” về thăm quê bằng trí tưởng tượng qua những lời kể của mẹ. Mẹ kể Hạ Lang quê hương tôi là mảnh đất xinh đẹp, nhưng đất đai cằn cỗi, nhiều núi đá, không thuận tiện cho việc trồng trọt, chăn nuôi. Gia đình tôi tứ đời dựa vào hạt lúa, hạt ngô, đánh vật với cuộc sống chồng chất khó khăn, đến đời ba mẹ tôi vẫn nối tiếp lối đi ấy.
Ảnh minh họa
Trên tôi có 5 anh chị – 5 cái tàu luôn trong tư thế há miệng, lắp xắp nhau, đua nhau lớn, đua nhau ăn, bào đẽo mồ hôi nước mắt của ba mẹ. Không thể chứng kiến cảnh con cái đói ăn, đói chữ, cha me tôi quyết định di cư tới một vùng đất mới. Mẹ tôi kể lại, chúng tôi di cư giống như những đàn chim bay về phương Nam tránh bão, xa rời mùa đông lạnh giá, nhưng đến mùa xuân, đàn chim ấy được trở về quê hương, nơi chốn, còn chúng tôi, mải miết ra đi và không hẹn ngày trở lại. Nỗi lòng đau đáu giày vò ba mẹ tôi nhiều lắm. Nhưng vì cái nghèo, vì tương lai của các con, ba mẹ không có sự lựa chọn khác.
Đắk Lắk – vùng đất đỏ bazan màu mỡ được chọn là nơi ba mẹ đặt những viên gạch tạo dựng cuộc sống mới, kiếm kế sinh nhai, nuôi dạy các con thơ. Ngày ấy, dù đất đai chưa đắt đỏ như bây giờ, nhưng toàn bộ số tiền bán nhà ở Hạ Lang có được, ba mẹ tôi cũng chỉ mua được mảnh đất ven bìa rừng, trồng mì, trồng bắp nuôi anh chị tôi ăn học. Ngày ấy, người miền Bắc di cư vào Tây Nguyên làm ăn, sinh sống rất nhiều, hàng xóm xung quanh tôi đều là người dân miền Bắc vào, thành thử từ nhỏ cho tới khi trưởng thành, mấy anh em tôi vẫn giữ được chất giọng riêng của quê mình, hơi nặng một chút, nhưng rành mạch, rõ ràng.
Cả nhà chuyển vào đó được một năm thì mẹ sinh ra tôi, giữa biết bao bộn bề gian khó và thiếu thốn. Cái tên “Đông” nhằm khẳng định một điều không mấy vui vẻ trong gia đình, rằng nhà tôi quá đông anh em, dù thời điểm những năm 1989, 1990, Nhà nước đã ban hành chính sách kế hoạch hóa gia đình. Nhiều lần say rượu, trong những lời nhiếc móc của ba, tôi hiểu rằng mình là đứa con không được chào đón. Vì ba mẹ bị “vỡ kế hoạch” nên mới có sự hiện diện của tôi trong cõi đời này. Hình như cũng vì lẽ đó mà mẹ dành tình cảm đặc biệt cho tôi, luôn bênh vực tôi trước sự sỗ sàng, hung hãn của ba và sự ăn hiếp, bắt nạt của các anh chị lớn trong nhà.
Hiểu rõ nỗi ê chề, khổ sở của người dân không biết chữ, ba mẹ tôi cố gắng cho mấy anh em tôi ăn học. Các anh chị dừng ở mức biết hết các mặt chữ rồi cũng đành từ giã bảng đen, phấn trắng, thay vào đó là theo ba, theo mẹ lên rẫy làm cỏ bắp, cỏ mì. Tôi may mắn hơn các anh chị, được học lên lớp 6, sau đó cũng phải bỏ học, ở nhà làm lụng đỡ đần ba mẹ. Đó là năm gia đình tôi lâm vào tình cảnh nghèo khổ, mưa kéo dài, sâu bệnh phát triển, toàn bộ hoa màu của ba mẹ tôi bị sâu bọ phá hoại. Mẹ tôi xót của, công lênh cả một năm trời đổ xuống sông, xuống bể. Mẹ đứng giữa dẫy mì, ôm mặt khóc hu hu, át cả tiếng mưa rơi nặng hạt. Mấy anh em tôi đứng trong lều đứa bặm môi, đứa bấu chặt vào cánh cửa gỗ, nhìn ra ngoài rẫy, thấy mẹ nhỏ xíu, gầy guộc đứng chơ vơ, cô độc trong cơn mưa gió. Tôi lúc ấy mới hơn chục tuổi, sợ hãi nhìn mẹ mà bật khóc theo. Tôi ngây thơ sợ mẹ tôi bị ông trời “nuốt chửng” lấy, sợ mẹ tôi quy ngã không thể quay trở về lều với anh em tôi nữa.
Nhưng, quả thật, mẹ tôi là một người phụ nữ giàu khả năng chịu đựng và tiềm tàng sức sống. Lời mẹ nói trong bữa cơm tôi còn nhớ mãi: “Ngày mai mấy mẹ con, ba con mình lại lên rẫy trồng đợt củ mới. Chúng ta không thể gục ngã chỉ vì chuyện cỏn con này được”. Và đúng như những gì đã nói, mẹ tôi lại hăm hở lên rẫy, lên nương, cầm chiếc cuốc lật tung từng vạt đất, xới cỏ, mở ra một hi vọng mới về cuộc sống bớt nghèo cho mấy đứa con tội nghiệp. Nhưng, trời hay trêu ngươi kẻ khó, vụ mùa tiếp theo chúng tôi vẫn thất thu, đúng dịp có người chú họ ở Gia Lai rủ ba mẹ tôi về đó sinh sống, gây dựng lại cơ nghiệp. Ba mẹ tôi bàn bạc kĩ lắm, người chau mày, người thở dài cả đêm khuya, mấy anh tôi nín thở chờ đợi quyết định của họ. Rời khỏi mảnh đất Đắk Lắk, ba mẹ bịn rịn nhiều lắm, dù sao với bộn bề kỉ niệm.
Tận cùng nghèo khó thêm biết ơn tấm lòng người mẹ
Chuyển tới Gia Lai, gia đình chúng tôi vẫn sống ở ven rừng. Từ đường tỉnh lộ đi tới căn lều nhỏ của chúng tôi phải mất ít nhất một giờ đồng hồ nếu là đi xe gắn máy. Còn nếu đi bộ, hẳn sẽ còn mất nhiều thời gian hơn, vì đường vào nhà là con đường nhỏ do chúng tôi tự phát cây, mở lối. Lối đi là đất đỏ, mùa mưa, đất mút chặt bàn chân như kéo vít mọi nỗ lực di chuyển của người qua lại. Ngày đầu chưa quen, anh em chúng tôi ngã nhào như đập bị do trơn trượt bánh xe. Lần nào lần nấy về nhà, tay chân cũng xước xát, trầy da, rướm máu, mẹ tôi tìm đâu được thứ cây rừng nhai bỏm bẻm và dí vào vết thương của chúng tôi, nói rằng đó là cây cầm máu. Sau này, sau nhiều lần có kinh nghiệm đi đường rừng, ba mẹ tôi quyết định mua một sợi dây xích quấn vào bánh xe gắn máy. Nhờ sợi dây xích to bản quấn quanh lốp xe, chúng tôi có thể rón rén lái xe đi lại, và nỗi sợ hãi ngã xe, va đập như trước phần nào được xoa dịu. Chúng tôi gọi vui đó là “phát kiến vĩ đại” của những con người không chịu đầu hàng hoàn cảnh.
Cho tới giờ phút này, người tôi muốn nhắc tới nhiều nhất và cũng là người tôi yêu thương, xa xót nhất mỗi khi nhắc tới chính là mẹ. Trong kí ức tuổi thơ tôi, mẹ là một người đặc biệt. Nói về nỗi khổ của mẹ, thú thật, tôi không biết phải dùng từ ngữ nào để diễn tả. Nhà tôi không nhiều đất, vào Gia Lai cũng chỉ đủ đất trồng mì, trồng bắp. Mẹ tôi hôm nào cũng dậy từ 3 giờ sáng, tất bật việc nhà rồi lại cắp chiếc nón lên rẫy lượm nông sản người ta thu hoạch còn sót lại. Mẹ tôi mê mải, cặm cụi làm từ ngày này qua ngày khác, bất kể trời nắng hay mưa, đến mức những người ở đó ban đầu không hiểu chuyện, chê cười và nhìn mẹ tôi bằng ánh mắt dành cho người khuyết tật.
Họ giễu mẹ tôi là một người đàn bà tham lam, bù chi bút chút, keo kiệt nhưng họ chưa bao giờ đặt mình vào vị trí của mẹ, phải chèo chống một gia đình có 6 đứa con thơ và một người chồng hay ca thán, mắng chửi, sinh rượu chè cũng chỉ tại số nghèo. Mẹ không giải thích hay phân bua bất cứ điều gì, luôn lặng lẽ, khiêm nhường như thế kể từ khi tôi hơn chục tuổi đầu cho tới lúc trưởng thành. Tôi là con út của mẹ, được mẹ yêu thương và chiều chuộng nhất. Có lần mẹ nói với tôi, đáng lẽ ra mẹ phải nuôi tôi học cao hơn nữa, cho tôi cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy hơn nữa, nhưng chính mẹ cũng bất lực, mẹ có lỗi với tôi. Lần thứ hai mẹ khóc sau lần đứng giữa rẫy mì bữa nọ là lúc tôi ốm liệt giường vì căn bệnh sốt vi rút và trong nhà không có lấy một xu, một đồng cho tôi chữa bệnh.
Sau này, các anh chị tôi lập gia đình và cũng có cuộc sống riêng. Có người trong số họ thay tâm đổi tính, ít khi ghé qua hỏi han ba mẹ, nhưng ba mẹ tôi vẫn vậy chẳng hề suy suyển một chút nào. Sáng sớm mẹ vẫn cầm chiếc nón rách tươm như xơ mướp lên rẫy mót củ, quả tới tận tối mịt mới trở về nhà. Mẹ quen với khổ sở, nên tôi cảm nhận được rất rõ niềm hạnh phúc của mẹ ánh ngời trong khóe mắt khi lần đầu tiên đưa mẹ 300 nghìn – số tiền tôi kiếm được nhờ công việc chăn vịt thuê cho một người ngoài phố. Chính vì đôi mắt vui mừng, hạnh phúc của mẹ, tôi càng cố gắng làm việc chăm chỉ hơn và kiếm được bao nhiêu tiền đều mang về gửi mẹ. Lớn hơn một chút, tôi làm thuê ở rẫy cà phê cho người ta, khi làm rẫy, khi phát cành, khi bón phân, lúc thu hoạch, nói chung là mùa nào việc nấy, quanh năm chẳng bao giờ hết việc.
Giống như biết bao bà mẹ nông dân khác, quen với khổ sở, sống nghèo túng ngấm sâu vào máu thịt, nên sự “tâm lý” dành cho con cái hầu như không có. Mẹ chưa bao giờ hỏi nguyện vọng của tôi, hỏi tôi thích làm gì, muốn theo đuổi nghề nghiệp như thế nào? Hiểu mẹ, nên tôi chưa bao giờ trách cứ và thường chủ động bày tỏ với mẹ nguyện vọng của tôi. Tôi học lái xe và đã đi phụ xe xuyên huyện ở Gia Lai, với mong ước thoát khỏi ruộng nương, nhưng sâu xa hơn, tôi ước ao có một ngày có thể lái xe đèo mẹ, trở về thăm mảnh đất Cao Bằng – nơi chôn rau cắt rốn của gia đình tôi, nơi mà tôi mới chỉ được biết qua hồi ức lấp lánh nhọc nhằn, hoang hoải của ba mẹ. Nhưng giấc mơ của tôi đứt gánh giữa đường, chỉ vì một phút cuồng dại, không làm chủ được bản thân.
“Có nằm mơ tôi cũng không bao giờ tưởng tượng mình độc ác đến thế”
Video đang HOT
Nhà tôi và nhà chị Thúy là hàng xóm của nhau. Chị Thúy sinh năm 1979, là một người có ngoại hình ưa nhìn. Chúng tôi thi thoảng gặp nhau vẫn chào hỏi, trò chuyện thân tình. Chị luôn coi tôi là cậu em trai tốt. Lợi dụng sự sơ hở trong thái độ của chị dành cho tôi, ngày 28/8/2009, từ sáng sớm tinh mơ tôi đã theo chân chị Thúy lên rẫy. Dĩ nhiên, tôi lặng lẽ bám theo chị. Khi tới giữa rừng cà phê, nhân lúc chị không để ý tôi đã lao tới quật ngã chị Thúy và xé bỏ quần áo trên người chị ấy. Người phụ nữ chân yếu tay mềm không thể chống cự lại được sức vóc của gã trai 19 tuổi lên cơn thú tính.
Chị Thúy chống cự quyết liệt, gào thét dữ dội, nhưng giữa chốn đồng không mông quạnh ấy, kiếm đâu ra người tới cứu chị. Sợ sự việc bại lộ, tôi giết chị Thúy và lột toàn bộ số trang sức, tiền chị mang theo bên người. Sau khi gây án, tôi chạy thục mạng vào rừng, bừng tỉnh nhận ra bàn tay tôi đã nhúng máu. Tôi không biết mình đã chạy đi đâu, chỉ tới khi tối mịt, tôi mới chịu dừng lại.
Nhưng người ta đã nói “lưới trời lồng lộng, tất có báo ứng”, hành vi tội lỗi của tôi không qua nổi mắt cơ quan điều tra, và tôi bị bắt không lâu sau đó, ngay khi xuất đầu lộ diện. Lúc tôi bị cáo buộc 3 tội danh “giết người”, “hiếp dâm”, “cướp của”, mẹ tôi gào khóc, một mực cho rằng cơ quan chức năng bắt nhầm người. Mẹ tôi nức nở, giọng lạc đi: “Cán bộ nhầm rồi, thằng Đông nhà tôi làm sao có thể phạm tội tày trời ấy được. Nó ngoan lắm, nó làm ra bao nhiêu tiền đều đưa cả cho tôi. Tấm áo rách nó không biết sắm sanh, đôi dép đứt nếu mẹ không mua thì cũng mặc kệ, lành hiền, củ mỉ thế làm sao giết người được?”. Khi tôi lặng lẽ cúi đầu nhận tội và đi theo các cán bộ điều tra về nhà tạm giam của Công an tỉnh Gia Lai, cũng là lúc mẹ tôi ngã quỵ xuống nền đất nện trước lều. Có lẽ, giây phút đó, mẹ đã cảm nhận được tôi rời xa vòng tay mẹ vĩnh viễn.
Tôi đã trải qua hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Với tội danh của mình, tôi lường trước được cái án phải mang. Còn nhớ, trong phiên tòa ấy, tôi mỏi cổ dõi về phía sau, tìm kiếm bóng dáng người thân. Mẹ tôi. Ba tôi. Các anh chị tôi. Không một ai xuất hiện. Thời điểm ấy tôi tột cùng hoang mang, sợ hãi. Cảm giác bị bỏ rơi, bị gạt khỏi gia đình, bị quay lưng bức bách cả tâm trí. Nhưng, sau đó, tự tôi trả lời được tất cả những câu hỏi chất ngất trong lòng. Ba mẹ tôi không tới vì ông bà đã già rồi, họ quá nghèo khổ để có thể lo chi phí tàu xe đi lại. Nhưng, tôi trách các anh chị tôi lắm, dù tôi có là kẻ tội đồ, nhưng vẫn cùng chung giọt máu với các anh chị. Từ ngày ra ở riêng, họ lạnh nhạt với tôi và ba mẹ. Tình cảm anh em ruột thịt cứ vậy mà trở nên xa cách, nhạt nhòa. Tôi bị tuyên án tử hình – dấu chấm hết cho một kẻ ngông cuồng, hủy hoại cuộc đời mình trong gang tấc.
Sau khi bị tuyên án, các cán bộ giải tôi về giam giữ ở Trại T20 thuộc Công an tỉnh Gia Lai. Thời gian đầu, do tâm lý không thông, nghĩ rằng chẳng có bất cứ cơ hội nào để sống, tôi tiêu cực, thường xuyên bỏ bữa, đêm đêm gào thét, phá rối trật tự buồng giam. Nhưng, sau nhờ các cán bộ quản giáo động viên, phổ biến nội quy của trại và hướng dẫn tôi viết đơn xin ân xá gửi lên Chủ tịch nước, tôi nhận ra rằng mình vẫn còn cơ hội sống, cho dù nó rất mong manh. Tôi dạy cho mình một suy nghĩ: Nếu còn có thể hi vọng thì hãy cứ hi vọng, chẳng ai có quyền cấm cản ước mơ của mình.
Nhưng, kỳ vọng của tôi được ân xá của Chủ tịch nước, thoát khỏi tội chết tôi cũng không quá lớn lao, bởi với tội danh của mình, tôi hiểu rằng cơ hội dành cho mình vô cùng nhỏ nhoi. Hi vọng quá nhiều rồi sau không đạt như kỳ vọng, sẽ dẫn tới hố sâu của tuyệt vọng. Chỉ biết rằng, tôi đang trân trọng mỗi giây phút đi qua trong đời. Vào tù, một mình nơi buồng giam cách biệt với thế giới, tôi mới hiểu thấm thìa giá trị của tự do, giá trị của sự sống – thứ mà tuổi trẻ tôi ngông cuồng không biết bảo vệ. Có thể, sẽ có một ngày tôi phải vĩnh biệt cuộc đời này. Có thể là ngày mai, ngày kia, hoặc một ngày nào đó không quá xa… nếu như đơn xin ân xá gửi lên Chủ tịch nước của tôi không được chấp thuận, nhưng qua đây, tôi muốn gửi một lời tri ân tới cuộc đời, tới mẹ của tôi.
Tôi từng là niềm tự hào của mẹ, là đứa con được mẹ yêu thương nhất, gần gũi nhất, nhưng chính tôi, chưa kịp báo hiếu cho mẹ lúc xế chiều, lại mang tới cho mẹ nỗi đau không bao giờ gột rửa được. Tôi không bao giờ trách mẹ vì mẹ không tới dự phiên tòa xét xử tôi, cũng chưa từng ghé vào trại thăm nuôi tôi. Trái lại, tôi là đứa con bất hiếu. Tôi càng đau xót hơn nghĩ đến mẹ ngày càng già yếu và căng mình trong muôn vàn khó khăn cùng tai tiếng về đứa con trai sát nhân, tàn ác. Làm sao tôi có thể tạ lỗi với mẹ đây?
Không hiểu sao từ ngày bị bắt, tôi hay mơ màng về những con đường dốc cao thẳng đứng, chơi vơi, bồng bềnh giữa ngàn mây ở Hạ Lang quê hương tôi – nơi tôi chưa từng được đặt chân đến. Đó cũng là điều hối tiếc nhất của một kẻ tử tội như tôi: không hề biết mặt quê hương, nơi chốn của mình, và có thể khi chết sẽ nằm lại nơi đất khách xa xôi này. Quản giáo của tôi bảo tôi hãy cứ mơ đi, biết đâu phép màu xuất hiện, quê hương xa xôi kia trở thành nguồn động lực lớn lao để tôi không ngừng mơ ước thì sao. Cán bộ nói đúng.
Người ta thường bảo, đối với một tử tù, một mình trong bốn bức tường giam chật chội sẽ hoàn toàn mất các ý niệm về thời gian, lấy ngày làm đêm, đêm làm ngày, vật vờ như con “ma sống”. Nhưng với tôi lại khác, tôi cảm thức rất rõ về từng giây phút trôi qua. Có đôi khi chỉ là tiếng gà gáy sáng xa xôi từ buôn làng nào đó lạc vào sau song sắt, đánh thức giấc ngủ chênh vênh của tôi, tự khắc như có một luồng điện chạy dọc cơ thể, tôi bừng tỉnh và tự nhủ thầm: “Được sống thêm một ngày”. Một ngày sống đối với kẻ tử tù như tôi chẳng gì có thể so sánh được. Và biết bao buổi sớm bình minh đó, tôi thầm cảm ơn cuộc đời đã cho tôi thêm một ngày được tồn tại trên cõi đời và tiếp tục hi vọng về một kết cục tốt – đẹp – nhất cho bản thân trong hoàn cảnh lao lý này.
Tôi của hôm nay đã khác rất nhiều “tôi” của 3 năm trước. Tôi biết lắng lòng để nghĩ suy, chiêm nghiệm về cuôc đời, về mẹ, về những người thân. Và càng ngộ ra biết bao điều tươi đẹp của hồi ức, tôi lại càng nuối tiếc về hiện tại và tương lai. Một lời cuối cùng, chỉ cầu mong mọt kết cục tốt đẹp nhất sẽ đến với tôi, và trong tôi, ngọn lửa hi vọng vẫn bập bùng soi rọi.
Kết
Ai đó từng nói rằng: “Nhìn về phía mặt trời, bóng tối đã bị đẩy lùi về phía sau lưng”. Qua cuộc trò chuyện cùng Triệu Văn Đông – kẻ tử tù phạm 3 tội danh nghiêm trọng, chí ít tôi cảm thấy không quá nặng nề. Lòng hắn u uẩn, nhưng tư tưởng hắn đã được đả thông. Hắn bị tuyên án tử và không biết cái chết sẽ đến vào lúc nào, nhưng hắn không ngừng hi vọng về một cơ may được sống. Số phận của Triệu Văn Đông không biết sẽ ra sao ở tương lai, nhưng bản án của hắn là lời cảnh tỉnh dành cho tất cả cho những ai không biết giữ mình, để phần con lấn át và ngự trị phần người. Sai lầm ấy sẽ phải trả giá cái giá rất đắt, thậm chỉ bằng chính mạng sống của mình, đó là luật nhân – quả ở đời.
Theo ANTD
Chuyện mẹ kế ra tay tàn độc với con riêng của chồng
Nghĩ sao làm vậy, thị vớ cây chày dưới bếp, đi theo sau cháu bé ngay khi cháu vừa bước chân vào phòng tắm rồi ra tay phang mạnh từ phía sau khiến cháu ngã quỵ xuống đất. Vốn đã chuẩn bị sẵn từ trước nên trong khoảnh khắc đó, thị đã lôi đôi găng tay được giấu trên gác bếp xuống xỏ vào rồi nhảy đến bóp cổ cháu đến lúc thấy Lan Anh không còn cử động được nữa, thị mới buông tay.
Người đàn bà ấy đã từng làm mẹ. Và thị chấp nhận làm vợ hai của một người đàn ông vì thương cảnh gà trống nuôi con. Nhưng cuộc sống theo kiểu rổ rá cạp lại không hề đơn giản, nhất là khi cháu gái con riêng của chồng, tuy chỉ mới 10 tuổi thôi nhưng đã có những nhận thức sớm về cuộc sống.
Từ yêu thương đến ganh ghét, thậm chí là ghen tỵ chỉ như chớp mắt đời người. Hôm qua còn yêu, hôm nay đã ghét. Sáng sớm còn cưng nựng, chiều tà đã roi vọt. Để rồi cái kết sau rốt là thị lập mưu giết chết cháu nhỏ khi sự đố kị đã qua sức chịu đựng.
Hạ sát cháu nhỏ vô tội xong, thị tạo hiện trường giả. Nhưng lưới trời lồng lộng, thị đã phải trả giá bằng 20 năm hoài phí tuổi xuân xanh của mình trong trại giam.
Từ khi mới bập bõm vào nghề viết lách đến nay, tôi vẫn thường chịu khó đến với các trại giam, bao gồm cả trại giam của Tổng cục 8 Bộ Công an đóng trên địa bàn các tỉnh miền Trung và một số trại tạm giam trực thuộc công an các tỉnh địa phương.
Đến, đơn giản là để nghe các phạm nhân trải lòng sau những gì họ gây ra, khi đã có đủ thời gian để nhận chân lại mọi thứ. Trong những chuyến đi ấy, điều đọng lại trong tâm thức tôi bao giờ cũng là tiếng lòng nức nở của những nữ phạm nhân, là thủ phạm trong các vụ án gia đình.
Phạm nhân Nguyễn Thị Oanh.
Một khi đã khoác lên mình bộ quần áo sọc dọc, không ít bà mẹ đã sám hối sau khi ra tay sát hại con, đầu độc chồng trong một cơn giận bất chợt và bất thường. Nhưng với thị, người đàn bà đã xuống tay với con riêng bé bỏng của chồng, tuyệt nhiên tôi không (hoặc chưa) tìm thấy sự thức tỉnh ấy.
Thị có tên là Nguyễn Thị Oanh, năm nay tròn 40 tuổi, nhưng ngày gây ra tội ác kinh hoàng, thị chỉ mới qua tuổi 30 của đời người. Ở vào cái tuổi ấy, cũng không còn trẻ để nói là nông nổi, bồng bột nữa.
Trước khi đặt bút viết bài báo này, bản thân tôi có tìm ra một lý do, dù thật khiên cưỡng để biện minh cho hành vi của thị, nhưng mọi ngôn từ đều bất lực. Ghen tỵ với một đứa trẻ lên 10, hoặc ghét bỏ nó, thì lý do nào cũng thật đáng chê trách và không thể chấp nhận được.
Hành vi của thị là quá đớn hèn. Ích kỷ. Nhẫn tâm. Vô đạo và hoàn toàn không được chấp nhận, dù với bất cứ lý do gì.
Thị Oanh sinh ra trong một gia đình nề nếp, có hai chị em gái. Con nhà có điều kiện, lại sống ở thành phố nên thị đã sớm được thụ hưởng những giá trị vật chất hơn bao bạn bè cùng trang lứa. Trong điều kiện đó, thay vì lo lắng cho sự nghiệp thì Oanh lại chán ngán việc học hành, sa đà vào yêu đương.
Hậu quả là năm học 17 tuổi, yêu đương sâu nặng đến độ thị phải bỏ ngang chuyện học để lấy chồng. Vợ chồng trẻ con được xây dựng trên nền tảng tình yêu cảm tính ấy không bền vững được lâu, sống với nhau được một thời gian, khi kịp có chung đứa con thì đường ai nấy bước. Một thời gian sau đó, Oanh gặp anh Võ Văn Hảo, ở phường Tân Giang, TX. Hà Tĩnh.
Anh Hảo cũng có cuộc sống gia đình riêng bất hạnh, kết hôn được gần 10 năm thì vợ chồng lục đục nên kéo nhau ra tòa. Gia đình tan vỡ, chị vợ bỏ đi miền Nam lập nghiệp, anh nhận trách nhiệm nuôi đứa con chung là cháu Võ Lan Anh.
Đàn bà, vốn dĩ dễ thông cảm, nhất là với những người đồng cảnh ngộ. Và thị cũng không ngoại lệ. Thấy anh vò võ một mình chăm con, thị đã thường xuyên qua lại giúp đỡ.
Tình thương hóa thành tình yêu, hai anh chị quyết định đi bước nữa, về sống chung với nhau dưới một mái nhà để tiện bề chăm sóc, vun vén cho tổ ấm gia đình.
Thị cũng là người biết nghĩ, và sâu sắc khi để tránh tình trạng con anh con tôi, về với anh Hảo, thị một thân một mình chứ đứa con riêng ba tuổi, thị không đón về mà nhờ ông bà ngoại chăm nom, thi thoảng ghé về thăm con.
Chuyện tưởng như vậy là hạnh phúc. Nhưng nhiều khi, lòng người khó đoán định. Thị đã từng thương con riêng của chồng trước khi thương yêu chồng, và động cơ kéo thị về ngôi nhà khuyết bàn tay phụ nữ ấy, một phần cũng là vì con bé.
Nhưng câu nói mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời gì ghẻ lại thương con chồng, trong trường hợp này hóa ra lại đúng. Chẳng biết vì lý do gì, và chẳng nhớ tự bao giờ, thị bỗng đâm ra thấy khó chịu trước sự hiện diện của con bé Lan Anh trong ngôi nhà nhỏ này.
Mọi lời nói, việc làm của con bé đều trở thành cái gai trong mắt thị. Thị ghét bỏ khi thấy nó cười. Thị hằn học khi thấy nó được cưng chiều, ganh tỵ mỗi lần khoe điểm 10 với bố. Càng theo thời gian, sự tích tụ càng lớn.
Cho đến một ngày, thị nảy sinh ý định loại con bé khỏi đời sống này, có như vậy thị mới thanh thản sống để hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc.
Tôi chẳng lý giải được, khi nghĩ đến điều này, thị là một ả đàn bà thâm độc hay nông nổi, nhưng hạ sát một đứa trẻ trong khi mình cũng đang nuôi con nhỏ, thì ngay cả ý nghĩ cũng đã thâm độc và đớn hèn lắm rồi. Vậy mà thị đã ra tay hèn hạ khiến cho dư luận không khỏi bi phẫn, bàng hoàng.
Hôm ấy, chồng thị, anh Võ Văn Hảo đi làm từ sáng sớm. Khi thị tỉnh dậy thì đã thấy cháu Lan Anh đang bày đồ chơi vung vãi khắp nhà. Thấy ngứa mắt, thị đã quát cháu và bắt dọn dẹp bằng hết, nhưng trẻ con khi đang thích một cái gì đó thì thật khó để bắt chúng từ bỏ.
Lan Anh cũng vậy, ngày thường rất biết nghe lời, nhưng hôm đó cháu đã bỏ ngoài tai lời rít của mẹ kế. Cũng may, lúc ấy cô em gái của thị là Nguyễn Thị Hương đến chơi nên mọi chuyện tạm lắng.
Đến lúc thị quyết định về nhà bố mẹ đẻ để thăm đứa con trai trước khi đi chợ, thì thị đã một lần nữa kêu cháu Lan Anh dọn dẹp nhà cửa và đi tắm trước khi thị về chuẩn bị bữa trưa cho cả nhà. Vừa ra khỏi ngõ, thị nhớ ra mình quên ví tiền, nên quay về lấy.
Thấy cháu Lan Anh vẫn say sưa với mớ đồ chơi mà quên lời dặn, Oanh bực tức trong người. Quát tháo được cháu bé vào phòng tắm, thị vẫn chưa thôi ấm ức nên đã lóe lên ý nghĩa ra tay tàn độc vì lúc ấy chỉ có cháu Lan Anh và thị ở nhà.
Nghĩ sao làm vậy, thị vớ cây chày dưới bếp, đi theo sau cháu bé ngay khi cháu vừa bước chân vào phòng tắm rồi ra tay phang mạnh từ phía sau khiến cháu ngã quỵ xuống đất.
Vốn đã chuẩn bị sẵn từ trước nên trong khoảnh khắc đó, thị đã lôi đôi găng tay được giấu trên gác bếp xuống xỏ vào rồi nhảy đến bóp cổ cháu đến lúc thấy Lan Anh không còn cử động được nữa, thị mới buông tay.
Sau khi biết chắc cháu bé đã chết, thị bèn kéo xác cháu xuống dưới gầm giường giấu đi và để đánh lạc hướng mọi người, thị nghĩ ra cách tạo hiện trường giả bằng việc lục tung đồ đạc trong nhà, xem như một vụ cướp tài sản, giết người bịt đầu mối.
Sau khi xóa sạch mọi dấu vết, thị trở ra chỗ cô em gái đang đợi và thông báo chuyện đã giết cháu Lan Anh, đồng thời dặn nếu sau này mọi người có hỏi tới thì khai rằng thị không quay trở về kể từ khi đã đi chợ và qua nhà ngoại thăm con.
Chiều cùng ngày, bà nội của cháu bé đã phát hiện ra cháu chết dưới gầm giường, vội thông báo tới cơ quan chức năng. Lúc ấy, thị mới hớt hải từ nhà ngoại về và lăn đùng từ trong nhà ra ngoài ngõ, khóc thương thảm thiết.
Ngay lập tức cơ quan công an vào cuộc và mọi nghi vấn được tập trung vào thị, người mẹ kế bỗng dưng tỏ ra tốt đột xuất với con riêng của chồng kể từ sau vụ án mạng.
Có một chi tiết mà cơ quan điều tra đặc biệt lưu ý, ấy là trước đó, sau một lần cháu Lan Anh có cự cãi với mẹ kế thì tối cùng ngày, con lợn đất mà cháu dành dụm bấy lâu bỗng dưng biến mất, cất công tìm kiếm thì chỉ thu được mấy mảnh vỡ vứt sau vườn nhà.
Tập trung các biện pháp đấu tranh, phải mất đúng một tuần, với những chứng cứ không thể chối cãi, Nguyễn Thị Oanh mới cúi đầu khai nhận mọi tội lỗi, chính thị là kẻ đã gây ra cái chết oan nghiệt cho đứa con thơ bé bỏng của chồng.
Biện minh cho hành vi mất nhân tính của mình, thị Oanh luôn cho rằng, chỉ là mẫu thuẫn bột phát, trong phút chốc không làm chủ được mình, thị đã ra tay quá đà với cháu bé vô tội mà không hề nghĩ đến hậu quả.
Thế nhưng, xâu chuỗi các sự kiện từ khi thị về làm vợ, làm mẹ trong ngôi nhà nhỏ này đến nay, với những khúc mắc vụn vặt nhưng luôn được thị đẩy lên thành chuyện lớn, thì người đàn bà này lại không lý giải được căn nguyên.
Thị tự đặt mình vào mâu thuẫn khi cho rằng, mình về làm vợ anh Võ Văn Hảo khi thấy anh này gà trống nuôi con, ngoài tình yêu còn là tình thương, muốn gánh vác một phần khó khăn trong cuộc sống gia đình của người đàn ông bất hạnh này, nhưng lại tỏ ra ghét bỏ đứa con riêng không có tội tình gì đến độ ra tay sát hại nó.
20 năm tù chỉ là khung hình phạt pháp lý mà tòa kêu án, nhưng bản án lương tâm mà thị phải gánh chịu suốt cả cuộc đời mình, ấy là sự đằn vặt lương tri. Cả những lo lắng mơ hồ nhưng có thật về đứa con trai bé bỏng của thị, nó sẽ nghĩ gì và sống như thế nào khi đã đủ khôn để nhận chân được mọi chuyện.
Thị không dám nghĩ thêm. Nước mắt cũng chẳng làm thay đổi được nghịch cảnh đời thường. Âu cũng là cái giá phải trả, sau tất thảy những gì thị gây ra.
Theo Phunutoday
Sám hối của đứa con bênh mẹ, hại chết bố Trong lần bức xúc vì mẹ bị bố đánh ngất xỉu, người bê bết máu, Trung đã đâm chết đấng sinh thành. Ngày 12/6, hành vi giết bố của Trung bị xét xử tại TAND Hà Nội. Trung đen đúa, gầy gò trong chiếc áo phạm, mắt dáo dác tìm người thân khi bị dẫn giải lên phòng xử. Bà Loan (mẹ Trung)...