Rối loạn chán ghét t.ình d.ục hậu COVID-19
Hậu COVID-19, nhiều người bệnh gặp các vấn đề liên quan đến chức năng sinh sản, sức khỏe t.ình d.ục cả ngắn và dài hạn. Rối loạn chán ghét t.ình d.ục, giảm ham muốn hậu COVID-19 là một trong số những vấn đề thường gặp.
1. Rối loạn chán ghét t.ình d.ục là gì?
Rối loạn chán ghét t.ình d.ục (SAD) là một loại rối loạn chức năng t.ình d.ục, trong đó một người có ác cảm, né tránh kích thích t.ình d.ục. Sự ác cảm cụ thể có thể là một khía cạnh của cuộc gặp gỡ t.ình d.ục, chẳng hạn như thâm nhập, hoặc các hành động chung chung hơn như hôn hoặc chạm vào.
Những người trải qua sự chán ghét t.ình d.ục có thể trải qua ham muốn t.ình d.ục bình thường, tưởng tượng và t.hủ d.âm để đạt cực khoái.
Thực tế, nhiều nam giới rối loạn chán ghét t.ình d.ục dẫn đến giảm ham muốn hoặc kích thích t.ình d.ục bị ức chế. Những người trải qua sự chán ghét t.ình d.ục có thể trải qua ham muốn t.ình d.ục bình thường, tưởng tượng và t.hủ d.âm để đạt cực khoái.
2. Phân loại rối loạn chán ghét t.ình d.ục
Có hai loại rối loạn chán ghét t.ình d.ục là chán ghét suốt đời (nguyên phát) và chán ghét mắc phải (thứ phát). Rối loạn chán ghét t.ình d.ục hậu COVID-19 thuộc loại thứ hai, chán ghét mắc phải.
Rối loạn chán ghét t.ình d.ục ảnh hưởng đến hạnh phúc lứa đôi.
2.1 Rối loạn chán ghét suốt đời
Rối loạn chán ghét suốt đời phát triển từ phản ứng tiêu cực hoặc không nhiệt tình đối với các tương tác t.ình d.ục trước khi một cá nhân trải qua hành vi t.ình d.ục lành mạnh với bạn tình. Điều này có thể xảy ra khi được nuôi dưỡng trong một môi trường tôn giáo nghiêm ngặt, nơi xa lánh các hành vi t.ình d.ục vì thú vui.
2.2 Rối loạn chán ghét mắc phải
Rối loạn chán ghét mắc phải được phát triển để đáp ứng với trải nghiệm t.ình d.ục tiêu cực đáng kể. Chẳng hạn như chấn thương hoặc lạm dụng, sau khi trải qua một thời kỳ hành vi t.ình d.ục lành mạnh lần đầu tiên. Ác cảm có được cũng có thể xuất hiện trong một mối quan hệ cụ thể và không có bên ngoài mối quan hệ đó.
3. Rối loạn chán ghét t.ình d.ục dễ bị nhầm lẫn
Rối loạn chán ghét t.ình d.ục thường bị nhầm lẫn với các rối loạn và nhận dạng t.ình d.ục khác. Ví dụ, rối loạn ham muốn t.ình d.ục giảm hoạt động ở nam giới là tình trạng thiếu ham muốn hoạt động t.ình d.ục tái diễn hoặc dai dẳng. Mặc dù nam giới bị rối loạn ham muốn t.ình d.ục giảm hoạt động cũng có thể tránh quan hệ t.ình d.ục nhưng điều này khác với rối loạn chán ghét t.ình d.ục ở chỗ, ham muốn vẫn có ở những người bị rối loạn chán ghét t.ình d.ục tuy họ không thích một số kích thích nhất định.
Rối loạn kích thích t.ình d.ục nữ là một chứng rối loạn khác có các triệu chứng tương tự. Đó là tình trạng tái phát hoặc liên tục không thể đạt được/duy trì phản ứng thể chất đầy đủ đối với hưng phấn t.ình d.ục. Chẳng hạn như khả năng bôi trơn và giãn nở â.m đ.ạo kém hoặc sưng tấy cơ quan s.inh d.ục ngoài. Rối loạn kích thích t.ình d.ục nữ là một phản ứng vật lý so với một phản ứng tâm lý. Những người trải qua rối loạn kích thích t.ình d.ục nữ không ác cảm với kích thích t.ình d.ục; họ không thể tham gia đầy đủ vào các hành vi.
4. Nguyên nhân của rối loạn chán ghét t.ình d.ục
Rối loạn chán ghét t.ình d.ục có thể do di truyền hoặc do mắc một số bệnh lý gây ra.
Rối loạn chán ghét t.ình d.ục phát triển để phản ứng với những trải nghiệm và thông điệp t.ình d.ục tiêu cực. Tỷ lệ hiện mắc của rối loạn chán ghét t.ình d.ục không được biết rõ và khó xác định. Vì những người này tránh gặp gỡ t.ình d.ục, cũng như các mối quan hệ thân mật, và hiếm khi xuất hiện tại các liệu pháp trị liệu chán ghét t.ình d.ục hoặc các phòng khám trị liệu dành cho cặp đôi.
Theo các nghiên cứu, t.iền sử gia đình mắc chứng rối loạn lo âu và ám ảnh thường gặp ở những người bị rối loạn chán ghét t.ình d.ục.
Tình trạng sức khỏe và điều trị y tế cũng có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của ác cảm t.ình d.ục. Một số bệnh, chẳng hạn như các bệnh ung thư khác nhau và hiện nay là COVID-19 gây ra những thay đổi về thể chất ảnh hưởng đến hoạt động t.ình d.ục hoặc hình ảnh cơ thể của một cá nhân. Một số loại thuốc, chẳng hạn như thuốc điều trị trầm cảm có thể làm giảm phản ứng cực khoái, tạo ra một môi trường và trải nghiệm khó đoán và khó chịu.
5. Các triệu chứng rối loạn chán ghét t.ình d.ục
Thang đo ác cảm t.ình d.ục dựa trên tiêu chí chẩn đoán trẻ tự kỷ đôi khi được sử dụng để đ.ánh giá nỗi sợ hãi và tránh né t.ình d.ục và thảo luận về các triệu chứng rối loạn chán ghét t.ình d.ục.
Kiểm tra lại bản thân nếu có những dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn chán ghét t.ình d.ục:
Sợ quan hệ t.ình d.ục với người khác.Nhiều lần tránh tất cả hoặc gần như tất cả các quan hệ t.ình d.ục ở bộ phận s.inh d.ục với bạn tình.Tránh quan hệ t.ình d.ục gần đây vì nỗi sợ hãi t.ình d.ục.Thái độ bất thường về t.ình d.ục.Đời sống t.ình d.ục của tôi luôn là căng thẳng, bất an.Luôn cố gắng tránh những tình huống có thể liên quan đến t.ình d.ục.
Khi có biểu hiện rối loạn chán ghét t.ình d.ục cần có sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa.
6. Ảnh hưởng của rối loạn chán ghét t.ình d.ục
Rối loạn chán ghét t.ình d.ục có thể có nhiều tác động khác nhau đối với con người, bao gồm việc tránh bất kỳ tương tác nào có khả năng trở thành t.ình d.ục, chẳng hạn như hẹn hò hoặc ở một mình với bạn tình tiềm năng.
Các tác động khác của rối loạn chán ghét t.ình d.ục bao gồm:
Gặp khó khăn trong các mối quan hệ lãng mạn, yêu đương.Tranh giành quyền lực trong các mối quan hệ.Lo lắng t.ình d.ục hoặc các cơn hoảng sợ.Nếu sự rối loạn chán ghét t.ình d.ục bắt nguồn từ một trải nghiệm buồn, thì chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương tâm lý có thể xảy ra7. Điều trị rối loạn chán ghét t.ình d.ục
Điều trị rối loạn chán ghét t.ình d.ục được khuyến nghị khi nỗi sợ hãi tham gia vào hoạt động t.ình d.ục quá mức so với nguy cơ thực tế. Các lựa chọn điều trị bao gồm trợ giúp y tế, các lựa chọn sức khỏe tâm thần và vật lý trị liệu.
7.1 Tùy chọn trị liệu cá nhân
Liệu pháp nhận thức hành vi có thể điều trị hiệu quả rối loạn chán ghét t.ình d.ục. Nó tập trung vào việc thách thức và thay đổi những suy nghĩ, niềm tin và thái độ cũng như các hành vi tương ứng của chúng (chán ghét) để cải thiện khả năng điều tiết cảm xúc và phát triển các chiến lược đối phó cá nhân nhằm vào các triệu chứng lo lắng.
Liệu pháp tâm lý là phương pháp điều trị được lựa chọn cho những người cho rằng nỗi đau tâm thần là một thành phần của sự chán ghét t.ình d.ục của họ, hoặc những người quan niệm vấn đề của họ là triệu chứng của các vấn đề thời thơ ấu.
7.2 Các lựa chọn trị liệu cho cặp đôi
Liệu pháp cặp đôi cho phép cả hai thành viên của mối quan hệ giải quyết hiệu quả sự chán ghét t.ình d.ục và những ảnh hưởng của nó. Nếu có thể, cặp vợ chồng nên cộng tác làm việc với một nhóm chuyên gia sức khỏe t.ình d.ục, bao gồm bác sĩ, nhà tâm lý học, nhà trị liệu t.ình d.ục hoặc nhà vật lý trị liệu.
Suy giảm ham muốn t.ình d.ục hậu COVID-19, nhiều vợ chồng trục trặc 'chuyện ấy'
Theo các chuyên gia, sau khi mắc COVID-19, cả nam và nữ giới đều bị ảnh hưởng, trong đó, nam giới có thể mắc chứng rối l.oạn c.ương d.ương ngắn hạn hoặc dài hạn cao gấp 6 lần.
Dù đã khỏi COVID-19 gần 4 tháng nay nhưng hiện tại, anh Minh (Thủ Đức, TP.HCM) lại đang phải đối mặt với một chứng bệnh mới, đó là "bệnh"... sợ "yêu". Theo lời kể của anh Minh, hai vợ chồng anh cùng 2 con nhỏ bị COVID-19 nhưng triệu chứng nhẹ, chỉ sốt, ho và đau họng. Vợ và các con anh trở thành F0 trước, anh bị sau.
Sau 10 ngày khỏi bệnh, anh thấy cơ thể bình thường. Tuy nhiên, những ngày sau đó, chuyện chăn gối của vợ chồng anh bắt đầu xuất hiện những trục trặc. Anh liên tục rơi vào tình trạng "chưa đi đến chợ đã tiêu hết tiền", "trên bảo dưới không nghe"...
Ảnh minh họa.
Ban đầu, nghĩ do mới khỏi COVID-19, cơ thể chưa hồi phục hoàn toàn nên anh không quá lo lắng, chỉ ái ngại với vợ. Thế nhưng, đến lần thứ 4, thứ 5 vẫn thế trong khi anh cảm thấy sức khoẻ của mình hoàn toàn bình thường thì anh Minh bắt đầu tỏ ra lo lắng. Anh bắt đầu ngại "yêu", thậm chí lấy lý do để né tránh vợ.
Do tâm lý ngại ngùng nên anh không đi khám. Anh chỉ dám chia sẻ câu chuyện của mình lên một nhóm kín về chuyện vợ chồng và biết được nhiều "đấng mày râu" khác cũng rơi vào tình trạng tương tự như anh.
Trên thực tế, theo ThS.BS Nguyễn Hồ Vĩnh Phước, Khoa Nam học, Bệnh viện Bình Dân (TP.HCM), trong đại dịch COVID-19, những người nhiễm bệnh hay kể cả khi không nhiễm bệnh thì vấn đề sinh lý của cả nam và nữ cũng đều bị ảnh hưởng. Bởi lẽ, hoạt động t.ình d.ục gắn liền với sức khỏe tinh thần và tâm lý, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi ham muốn và tần suất t.ình d.ục đều giảm ở cả hai giới.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia y tế Mỹ, nam giới có thể mắc chứng rối l.oạn c.ương d.ương ngắn hạn hoặc dài hạn cao gấp 6 lần sau khi nhiễm COVID-19. Các nghiên cứu cũng ghi nhận nhiều trường hợp nam giới sau khi nhiễm COVID-19 bị ảnh hưởng đến khả năng quan hệ t.ình d.ục như: Không thể có hoặc duy trì sự cương cứng, tổn thương t.inh h.oàn, đau hoặc sưng t.inh h.oàn, không có khả năng đạt được cực khoái, mức testosterone thấp và các vấn đề sức khỏe tâm thần.
Đối tượng nam giới có nguy cơ cao bị rối loạn chức năng t.ình d.ục sau khi nhiễm COVID-19 là đàn ông lớn t.uổi hoặc những người bị tăng huyết áp, béo phì, đái tháo đường và bệnh tim... Tuy nhiên, ngày càng nhiều báo cáo ghi nhận về các trường hợp nam giới trẻ t.uổi gặp vấn đề rối loạn t.ình d.ục sau khi nhiễm COVID-19.
Còn ở nữ giới, theo PGS.TS.BS Vũ Thị Nhung, nguyên Giám đốc Bệnh viện Hùng Vương, Chủ tịch Liên chi Hội Phụ sản TP.HCM, một số nghiên cứu chỉ ra, khi mắc COVID-19 sẽ ảnh hưởng đến sự trưởng thành của nang noãn, niêm mạc tử cung bị viêm, từ đó tác động xấu đến quá trình trứng thụ tinh và làm tổ.
volume_off
Powered by
GliaStudio
Riêng vấn đề ham muốn t.ình d.ục ở nữ, theo một nghiên cứu ở Pakistan từ tháng 6/2020 đến tháng 3/2021 trên 300 phụ nữ bị nhiễm COVID-19 nặng tham gia trả lời bảng câu hỏi đ.ánh giá rối loạn t.ình d.ục (FSFI) sau khi khỏi bệnh cho thấy tỷ lệ nữ giới suy giảm ham muốn t.ình d.ục đáng kể so với trước khi mắc bệnh.
Theo các chuyên gia, hiện nay đã có nhiều bệnh viện bắt đầu triển khai khám hậu COVID để điều trị những di chứng COVID-19 kéo dài. Do đó, trong trường hợp gặp các di chứng hậu COVID-19, đặc biệt về sức khỏe sinh sản, rối loạn t.ình d.ục, người dân cần gặp bác sĩ tư vấn để được điều trị kịp thời. Không nên vì ngại ngùng mà để tình trạng kéo dài gây nhiều hệ lụy xấu về sức khoẻ sinh sản cũng như ảnh hưởng đến đời sống vợ chồng về sau.
Thời điểm 'yêu' lý tưởng, thăng hoa nhất với từng độ t.uổi Nhu cầu t.ình d.ục và lựa chọn thời điểm "yêu" lý tưởng, tốt cho sức khỏe là mối quan tâm của nhiều người. Bạn biết gì về chuyện ấy? 1. Nhu cầu t.ình d.ục theo từng độ t.uổi 1.1 T.ình d.ục ở độ t.uổi 20 - Đàn ông: Testosterone, một loại hormone mà nam giới cần để kích thích t.ình d.ục, thường cao...