Quy định về giám định hàm lượng chất ma túy: Khó cũng phải làm
Công văn số 234/TANDTC-HS của TANDTC về việc bắt buộc giám định hàm lượng của các chất ma túy trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy, lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo theo quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 là quy định tiến bộ trong tố tụng hình sự, phù hợp
Công văn 234 của TANDTC để quán triệt hệ thống TAND
Xung quanh nội dung công văn đã nhận được nhiều ý kiến đồng tình của nhiều nhà khoa học, chuyên gia pháp lý, các luật sư. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đề cập vấn đề này với sự phân tích, lý giải rõ ràng.
Trước tình hình tội phạm sản xuất, tàng trữ, buôn bán, sử dụng trái phép chất ma túy diễn biến phức tạp, ngày 24/12/2007, Bộ Công an – VKSNDTC – TANDTC- Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 17). Đây là một Thông tư liên tịch quan trọng nhằm góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án về ma túy.
Clip: Bắt đối tượng mua ma túy vào vũ trường sử dụng.
Theo quy định tại Phần I, mục 1.4 của Thông tư liên tịch số 17 thì: “Trong mọi trường hợp khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất”.
Tuy nhiên qua công tác giám đốc việc xét xử, TANDTC thấy còn có nhiều trường hợp HĐXX chỉ căn cứ vào kết quả giám định về trọng lượng của các chất nghi là ma túy để kết tội các bị cáo, mà không yêu cầu xác định hàm lượng chất ma túy trong các chất thu được đó, như vậy là áp dụng không đúng quy định của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Thông tư liên ngành, dẫn đến hậu quả có thể xét xử bị oan sai.
Để khắc phục tình trạng này, ngày 17/9/2014, TANDTC ban hành Công văn số 234/TANDTC-HS yêu cầu TAND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND các huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh, Tòa án quân sự các cấp cần quán triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17, đó là khi xét xử các vụ án phạm tội về ma túy thì phải có kết quả trưng cầu giám định hàm lượng ma túy trong các chất thu giữ được nghi là ma túy, từ đó xác định đúng trọng lượng chất ma túy để kết tội các bị cáo. Yêu cầu này của TANDTC là chấp hành theo đúng Hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 17 mà 4 cơ quan Trung ương đã ký để làm căn cứ cho Tòa án kết tội các bị cáo bảo đảm khách quan, chính xác.
Giám định hàm lượng chất ma túy nhằm bảo đảm xét xử tội phạm khách quan, chính xác.
Tuy nhiên có một số quan điểm, ý kiến không đồng tình, cho rằng quy định như vậy làm “bó tay” cơ quan tiến hành tố tụng bởi việc giám định hàm lượng chất ma túy là khó khăn, kéo dài. Có ý kiến từ một số cơ quan tố tụng địa phương phản ánh những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện và đề nghị hủy bỏ quy định giám định hàm lượng với lý do Bộ Công an không có đủ máy móc, phương tiện kỹ thuật và con người để thực hiện giám định hàm lượng chất ma túy…
Theo Thạc sỹ Đinh Công Tuấn, Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp: Trên thực tế, nội dung Công văn số 234 TANDTC-HS ngày 17/9/2014 của TANDTC không phải là quy định mới mà chỉ là để triển khai thực hiện quy định của Thông tư liên tịch số 17, trong đó có quy định “Trong mọi trường hợp khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định hàm lượng”. Như vậy TANDTC cũng chỉ một lần nữa nhắc lại yêu TAND và Tòa án quân sự các cấp quán triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch mà các cơ quan Bộ Công an-VKSNDTC-TANDTC và Bộ Tư pháp đã ký.
Để bảo đảm xét xử khách quan, chính xác: khó cũng phải làm
Video đang HOT
Thông tư số 17 cũng như Công văn số 234 ngày 17/9/2014 của TANDTC đã nhận được nhiều ý kiến đồng tình không những của các cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng, mà cả ý kiến của cơ quan chuyên môn, trong đó có Bộ Y tế.
Mới đây nhất, ngày 25/11/2014, Cục Quản lý Dược – Bộ Y tế có Công văn số 20542/QLD-KD gửi TANDTC nói rõ: “Chất ma túy cần được xác định và phân loại khác nhau vì trong Danh mục các chất ma túy do Ủy ban kiểm soát ma túy quốc tế cũng như danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 bao gồm nhiều loại chất ma túy khác nhau, mỗi loại có cấu tạo, thành phần, mục đích sử dụng khác nhau, từ đó có các biện pháp quản lý, kiểm soát phù hợp cũng như xử lý theo các mức độ khác nhau.
Giám định hàm lượng chất ma túy nhằm bảo đảm quyền con người, tránh oan sai.
Ví dụ: Điều 194 BLHS quy định tội tràng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong một khung hình phạt: Heroin hoặc Cocain có trọng lượng từ 5gam đến dưới 30mg nhưng các chất ma túy khác ở thể rắn khác có trọng lượng từ 20mg đến dưới 100mg…
Thông tư liên tịch số 17 quy định việc cần phải xác định hàm lượng của chất ma túy vì hàm lượng của một chất là lượng của một chất chứa trong một hỗn hợp hoặc trong một chất nào đó. Ví dụ: trọng lượng vàng có chứa trong khối mỏ quặng sẽ khác với trọng lượng toàn bộ khối mỏ quặng đó. Các thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần dùng để chữa bệnh cũng vậy: hàm lượng của chất gây nghiện có trong thuốc khác với trọng lượng của viên thuốc.
Như vậy, việc xác định loại ma túy, hàm lượng và trọng lượng của từng chất ma túy là cần thiết vì như vậy ta xác định chính xác số lượng chất gây nghiện, chất hướng tâm thần chứa trong đó. Ta không thể xét xử kẻ phạm tội sản xuất buôn bán, tàng trữ gói 1kg chất ma túy có chứa 2% chất ngây nghiện (tương đương 20mg chất gây nghiện) giống như gói 1kg (1000mg) chất gây nghiện hàm lượng 100% chất gây nghiện, vì Điều 194 BLHS quy định tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy có các khung hình phạt khác nhau cho người tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy ở thể rắn có trọng lượng từ 20gam đến dưới 100mg, từ 100mg đến dưới 300 gam, từ 300mg trở lên”.
Test kiểm tra nhanh nồng độ ma túy trong bình rượu ngâm rễ cây thuốc phiện.
Để tiếp tục thực hiện Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, ngày 14/10/2014, Lãnh đạo liên ngành Trung ương TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an đã họp với với sự có mặt các đơn vị chức năng của các cơ quan và đại diện Bộ Y tế do Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC chủ trì.
Sau khi nghe ý kiến trao đổi, thảo luận của đại diện lãnh đạo và các đơn vị chức năng, Chánh án Trương Hòa Bình tổng hợp các ý kiến và sơ bộ kết luận: Quy định của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn liên ngành tại Thông tư liên tịch số 17 là rất chặt chẽ và cụ thể. Công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014 yêu cầu các TAND thực hiện đúng quy định tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần 1 của Thông tư 17 là đúng đắn và cần thiết để tránh oan sai khi xét xử. Giám định hàm lượng chất ma túy là rất quan trọng để xác định khung hình phạt, đặc biệt là những vụ án có mức hình phạt tử hình, liên quan đến sinh mạng con người, liên quan đến vấn đề quốc tế, đến trách nhiệm của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, các ngành, đơn vị khác.
“Do đó, phải thực hiện nghiêm túc các quy định hướng dẫn của Bộ luật Hình sự và Thông tư liên tịch số 17, đó là việc giám định hàm lượng chất ma túy là bắt buộc đối với các chất thu giữ được nghi là chất ma túy, để từ đó xác định trọng lượng chất ma túy làm căn cứ xử phạt bị cáo…” – Chánh án Trương Hòa Bình khẳng định.
Công văn số 20542/QLD-KD của Cục Quản lý Dược – Bộ Y tế.
Chúng tôi cho rằng thực tế hiện nay đang có khó khăn, lúng túng trong việc giám định hàm lượng chất ma túy. Tuy nhiên Việt Nam hiện đã tham gia các Công ước quốc tế về quyền con người, bởi vậy trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử luôn phải đảm bảo sự công bằng và vì quyền con người. Quy định về giám định hàm lượng chất ma túy tại Thông tư liên tịch số 17 của liên ngành tư pháp Trung ương và Công văn số 234 của TANDTC là hoàn toàn phù hợp.
Không thể lấy những khó khăn về máy móc, phương tiện kỹ thuật và con người làm lý do để không thực hiện quy định tại Thông tư liên tịch số 17. Bởi lẽ với sự phối hợp của các ngành liên quan, sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước để thực hiện cải cách tư pháp thì khó khăn trên sẽ từng bước được giải quyết. Đặc biệt chỉ có xác định được hàm lượng chất ma túy trong số ma túy thu giữ được thì Tòa án mới có thể tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đây là một quy định tiến bộ, bảo đảm quyền con người, và để tránh xét xử oan sai, khó cũng phải làm!
Theo NTD
Thêm một vụ án oan được làm rõ
- Vừa có thêm một vụ án oan được Cơ quan điều tra Viện KSNDTC làm rõ. Người bị oan trong vụ án này là anh Vũ Ngọc Dương (27 tuổi, trú tại Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội). Anh Dương đã bị 2 cấp tòa sơ thẩm và phúc thẩm tuyên phạt 30 tháng tù về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Điều đáng nói trong vụ án này, là anh Vũ Ngọc Dương đã bị chính dì ruột của mình là bà Dương Diệu Thu làm giả hồ sơ, chứng từ rồi mượn tay các cơ quan pháp luật đẩy anh vào vòng lao lý.
Bà Nguyễn Thị Thanh Vân đang thực nghiệm lại hành vi làm giả giấy tờ trước Cơ quan điều tra.
Hậu quả, anh Vũ Ngọc Dương đang là một nhân viên ngân hàng, bị tạm giam 4 tháng 15 ngày, bị kết án 30 tháng tù giam, bị chiếm đoạt số tiền 297 triệu đồng, hiện đang trong giai đoạn chờ thi hành án nên bị mất việc làm và các quyền lợi khác của một công dân.
Xuất phát từ việc anh Vũ Ngọc Dương vay của ông Nguyễn Văn Hiền chồng bà Dương Diệu Thu (trú tại số nhà 11 ngách 59, ngõ 175 phố Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình, Hà Nội) 50 triệu đồng nhưng chưa trả.
Bà Dương Diệu Thu đã lập mưu, cấu kết với bà Nguyễn Thị Thanh Vân thực hiện hành vi làm giả giấy tờ tài liệu, vu khống anh Dương chiếm đoạt tiền tài trợ của Trung tâm dạy nghề và hướng nghiệp nhân đạo Đông Anh (Hà Nội) - nơi bà Thu đang công tác - với mục đích lấy lại số tiền anh Dương đã vay.
Chỉ bằng phương thức thủ công, phết dầu lên tờ giấy trắng đặt chồng lên và tô theo các con chữ trên tờ giấy vay tiền trước đây của anh Vũ Ngọc Dương, bà Vân đã tạo dựng nên một bộ hồ sơ giả gồm 2 phiếu chi, mỗi phiếu chi 50 triệu đồng, tổng cộng là 100 triệu đồng của hai công ty tài trợ tiền cho Trung tâm dạy nghề và hướng nghiệp nhân đạo Đông Anh có chữ ký nhận tiền của anh Dương và các giấy tờ pháp nhân chứng minh anh Dương là tình nguyện viên của trung tâm này.
Bộ hồ sơ giấy tờ giả này đã được bà Dương Diệu Thu nộp cho Trung tâm dạy nghề và hướng nghiệp nhân đạo Đông Anh và trung tâm này đã làm đơn tố cáo anh Vũ Ngọc Dương gửi Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh về hành vi lợi dụng tư cách tình nguyện viên của trung tâm để chiếm đoạt tiền tài trợ.
Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án này, Cơ quan điều tra công an huyện Đông Anh đã gửi các giấy tờ này cùng với mẫu chữ viết của anh Dương tới Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội để tiến hành giám định và được trả lời là các giấy tờ này do chính một người viết ra.
Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng đã căn cứ vào bản kết luận giám định này và lời khai của các nhân chứng để kết tội anh Vũ Ngọc Dương và tuyên phạt mức án 30 tháng tù.
Tại 2 phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm anh Vũ Ngọc Dương liên tục kêu oan nhưng không được tòa chấp nhận.
Sau phiên tòa phúc thẩm anh Dương và gia đình đã làm đơn tố cáo gửi Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao với nội dung các cơ quan tiến hành tố tụng đã cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án, căn cứ vào các hồ sơ tài liệu giả mạo để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kết án oan cho anh Dương.
Nhận thấy vụ án có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã vào cuộc.
Khi điều tra vụ án này, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã gửi toàn bộ giấy tờ mà các cơ quan tiến hành tố tụng trước đây lấy làm căn cứ kết tội anh Dương đến Phòng giám định kỹ thuật hình sự Bộ Quốc phòng để trưng cầu giám định lại. Kết quả được khẳng định đây là giấy tờ giả, không phải do một người viết ra.
Trước những kết quả giám định trái ngược nhau của hai cơ quan tiến hành giám định, Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã trao đổi ý kiến với Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, đơn vị trước đây đã tiến hành giám định bộ giấy tờ này và đã nhận được văn bản trả lời của đơn vị này với nội dung: "Tại thời điểm giám định, việc cung cấp thông tin về vụ việc cần giám định không đầy đủ, tài liệu cần giám định không hệ thống, phương thức thủ đoạn thực hiện của đối tượng rất mới, rất tinh vi (chưa từng gặp trong thực tiễn giám định) dẫn đến việc nghiên cứu đánh giá tài liệu và ra kết luận của giám định viên còn chưa toàn diện, thiếu chính xác".
Ngoài căn cứ là bản kết luận trưng cầu giám định, thì bản thân bà Dương Diệu Thu và bà Nguyễn Thị Thanh Vân cũng đã khai nhận hành vi làm giả giấy tờ tài liệu; Hai vị giám đốc công ty được cho là đã tài trợ số tiền 100 triệu đồng cũng xác nhận không tài trợ số tiền này; Các đối tượng chiếm đoạt tiền của gia đình anh Dương cũng đã nộp 122 triệu đồng tiền khắc phục hậu quả. Vì ngoài việc vu khống anh Vũ Ngọc Dương chiếm đoạt số tiền tài trợ 100 triệu đồng, bà Thu, bà Vân còn làm giả các giấy tờ vay nợ để chiếm đoạt của gia đình anh Dương tổng cộng 297 triệu đồng.
Với những chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, đủ cơ sở kết luận anh Vũ Ngọc Dương bị kết án oan, vì vậy ngày 3/11/2014, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã có văn bản gửi Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự xem xét kháng nghị hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Hiện tại Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang tiếp tục điều tra về hành vi vu khống, cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án đối với các cá nhân liên quan trong vụ án này.
Huyền Trang
Theo_VietNamNet
Thẩm phán xử oan ông Chấn bị khởi tố có do "tai nạn nghề nghiệp"? Nhằm đưa ra một cái nhìn trực diện về sự độc lập của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như việc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của tòa án hiện nay, PV báo Đời Sống và Pháp Luật đã có cuộc trao đổi với TS. Đỗ Cao Thắng, nguyên Chánh tòa Kinh tế TANDTC và Th.s...