PTT Vũ Đức Đam: Phải có đột phá mới về KHCN để đất nước “bứt phá”
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng đã qua giai đoạn khai thác những phần “lộ thiên”, để đất nước “bứt phá” cần tìm ra cái mới và phải có đột phá mới về khoa học và công nghệ.
(Ảnh minh họa: Anh Tuấn/TTXVN)
Ngày 13/4, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam cùng đoàn công tác đã có buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ, tập trung vào các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm của ngành khoa học và công nghệ giai đoạn 2021-2025 và nhiệm vụ của ngành giai đoạn 2021-2030 để đất nước “bứt phá,” phát triển phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt khẳng định lại vai trò khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố đầu vào quan trọng nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, là chìa khóa quyết định tốc độ và chất lượng phát triển của các quốc gia và nền kinh tế.
Vì vậy, Việt Nam từng bước khẳng định vai trò của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế- xã hội. Tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia được tăng cường, một số lĩnh vực khoa học công nghệ đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Hạ tầng nghiên cứu trong một số lĩnh vực trọng điểm như công nghệ sinh học, hoá dầu, vật liệu, tự động hoá, nano, công nghệ tính toán, y học… được tăng cường. Hoạt động xúc tiến, hỗ trợ tìm kiếm, trao đổi, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh…
Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia và bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ ngày càng hoàn thiện, phù hợp với cam kết, tiêu chuẩn quốc tế, phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng, đã qua giai đoạn khai thác những phần “lộ thiên”, cần quy hoạch lại để đầu tư có trọng điểm. Đổi mới là quá trình liên tục, thành tựu cũng luôn luôn có những bước tiến, cộng đồng khởi nghiệp cũng có những bước tiến đáng ghi nhận nhưng để đất nước “bứt phá” cần tìm ra cái mới và phải có đột phá mới về khoa học và công nghệ.
Phó Thủ tướng chỉ rõ, muốn đất nước “bứt phá” lên được phải là nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ nhưng khoa học và công nghệ cần phải cụ thể hoá, chi tiết hoá và phải có đột phá mới. Bên cạnh đó, có thể dựa trên xu thế phát triển của thế giới mới để tìm ra cái mới từ thực tế Việt Nam để kiến nghị thì đất nước mới có thể “bứt phá.”
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặt câu hỏi “Làm thế nào để khoa học trở thành động lực? sức mạnh của nền kinh tế?”
Về điều này, Phó Thủ tướng cho rằng có nhiều việc phải làm nhưng trước hết cần số hóa, ứng dụng công nghệ thông tin để việc quản lý các nhiệm vụ liên thông. Cơ chế tài chính vượt qua được những rào cản trước đây về mặt “đúng quy trình” và các bộ cùng tháo gỡ, ủng hộ thì đất nước mới có bước phát triển dài.
Video đang HOT
Trước “đặt hàng” của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt khẳng định cùng với các đơn vị tiếp tục xây dựng cơ chế đặc thù trình Chính phủ, tìm giải pháp tháo gỡ hiệu quả nhất để khoa học thực sự trở thành động lực, đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và xã hội.
Bộ đề xuất Chính phủ hoàn thiện các văn bản pháp luật về tài sản công và các văn bản hướng dẫn về xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng vốn nhà nước theo hướng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện để chuyển giao kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học vào thực tiễn đời sống, sản xuất, kinh doanh.
Bộ trưởng cho biết sẽ trình Chính phủ, Bộ Tài chính xem xét, quyết định việc duy trì áp dụng cơ chế tài chính đặc thù cho Cục Sở hữu trí tuệ trong giai đoạn sau năm 2021 để tạo điều kiện chủ động về nguồn lực đầu tư, phát triển các hoạt động sở hữu trí tuệ thực hiện Chiến lược về sở hữu trí tuệ và Luật Sở hữu trí tuệ chuẩn bị được sửa đổi; xem xét, quyết định việc áp dụng một số cơ chế đặc thù về tài chính, nhân sự, tổ chức bộ máy…) đối với Viện VKIST để Viện VKIST hoạt động đúng theo mục tiêu thành lập.
Đóng góp vào thành tựu chung đất nước giai đoạn 2016-2020
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định nhấn mạnh Giai đoạn 2016-2020, những thành tựu của ngành khoa học và công nghệ đã đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước thể hiện qua chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên 45,2% giai đoạn 2016-2020, tính chung 10 năm 2011-2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%); tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm (cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015); tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020; chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam (GII) năm 2020 xếp thứ 42/131 quốc gia, vùng lãnh thổ-dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapore và Malaysia.
Đặc biệt, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển với khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam, số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo liên tiếp tăng trưởng cao, đạt xấp xỉ 1 tỷ USD liên tiếp trong 2 năm gần đây, tăng gấp 3 lần so với năm 2017, đưa Việt Nam trở thành quốc gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo.
Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI 3 của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 tăng trung bình 20%. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.
Nếu như 10 năm trước đây kinh phí hoạt động khoa học và công nghệ chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 70-80% tổng đầu tư cho khoa học và công nghệ) thì đến nay, đầu tư cho khoa học và công nghệ từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%.
Bên cạnh đó, nghiên cứu khoa học và công nghệ đã có nhiều đóng góp tích cực trong hoạt động phòng, chống dịch COVID-19 trong tình hình dịch COVID-19 tại Việt Nam cũng như trên thế giới diễn biến phức tạp.
Nhiệm vụ của ngành giai đoạn 2021-2025
Giai đoạn 2021-2025, mặc dù thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định và nâng cao trên trường quốc tế nhưng nền kinh tế nước ta phát triển chưa bền vững, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, những đòi hỏi mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hệ lụy của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là tình hình dịch COVID-19 được dự báo còn tiếp tục kéo dài ảnh hưởng không những trong năm 2021 mà còn tiếp tục trong các năm tiếp theo.
(Ảnh minh họa: Danh Lam/TTXVN)
Trước tình hình trên, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được coi là nhân tố quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, là yếu tố thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Giai đoạn 2021-2025, toàn ngành khoa học và công nghệ phấn đấu huy động mọi nguồn lực để thực hiện mục tiêu thúc đẩy, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Theo đó, giai đoạn 2021-2025, Bộ tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý và tập trung nguồn lực để thực hiện nội dung đột phá chiến lược về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; triển khai áp dụng khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát ( sandbox ) đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong một số dự án khoa học và công nghệ; đảm bảo tỷ lệ chi ngân sách nhà nước tối thiểu 2%, phân bổ và sử dụng có hiệu quả và trọng tâm nguồn lực cho hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; khuyến khích nhiều doanh nghiệp thành lập và tăng quy mô các Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, sử dụng Quỹ cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ; triển khai các giải pháp để thúc đẩy, khuyến khích khu vực tư nhân và doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Bộ tiếp tục hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia trong đó doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, các Viện nghiên cứu và Đại học là các chủ thể nghiên cứu mạnh.
Đồng thời, tập trung xây dựng năng lực công nghệ cốt lõi thúc đẩy năng suất chất lượng, tận dụng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; triển khai hiệu quả và đồng bộ, có trọng điểm các chương trình khoa học, công nghệ cấp quốc gia theo định hướng tái cơ cấu các chương trình khoa học, công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2021-2025, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
Đặc biệt, Bộ tập trung phát triển Khu công nghệ cao Hòa Lạc thành trung tâm hỗ trợ nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, gắn kết với hoạt động của Viện VKIST để nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển công nghệ tiên tiến./.
'Nguồn nhân lực của ngành công nghiệp vật liệu còn thiếu và yếu'
Tại Việt Nam, nguyên vật liệu chưa đáp ứng được nhu cầu của nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất, dẫn đến phụ thuộc nguyên vật liệu nhập khẩu, do đó ảnh hưởng đến năng lực tự chủ, tự cường của nền kinh tế.
"Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển ngành công nghiệp vật liệu. Dù vậy, ngành công nghiệp vật liệu của nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, mong muốn và yêu cầu đặt ra. Có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, song một trong những nguyên nhân chủ yếu là nguồn nhân lực của ngành công nghiệp vật liệu còn thiếu và yếu; đào tạo nguồn nhân lực chưa gắn kết chặt chẽ với phát triển khoa học và công nghệ."
Nội dung trên được Trưởng Ban Kinh tế Trung ương-Trần Tuấn Anh nhấn mạnh tại Hội thảo quốc tế "Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp vật liệu đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" diễn ra ngày 10/4.
Ngành công nghiệp nền tảng
Ông Trần Tuấn Anh chỉ ra tính cấp thiết trong việc phát triển ngành, bởi các quốc gia trên thế giới muốn tiến hành công nghiệp hóa thành công đều có ngành công nghiệp vật liệu phát triển. Đây là ngành công nghiệp nền tảng, đóng vai trò cung cấp đầu vào cho tất cả các lĩnh vực sản xuất cũng như tiêu dùng của xã hội.
Tại Việt Nam, nguyên vật liệu trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất quan trọng, dẫn đến phụ thuộc nguyên vật liệu nhập khẩu, do đó ảnh hưởng đến năng lực tự chủ, tự cường của nền kinh tế.
"Sức cạnh tranh của nhiều ngành vật liệu còn hạn chế cả về trình độ công nghệ, năng lực sản xuất, chất lượng và chi phí. Điều này do công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa gắn kết chặt chẽ với phát triển khoa học và công nghệ và cơ chế; chính sách cho phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp vật liệu nói riêng còn nhiều bất cập," ông Trần Tuấn Anh nói.
Vì vậy, trước yêu cầu phát triển công nghiệp đất nước trong giai đoạn mới, trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng với việc thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng như sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh: "Việt Nam cần có tư duy và cách tiếp cận mới trong phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp vật liệu trong thời gian tới."
Chú trọng từ trong đào tạo
Tại hội thảo, ông Huỳnh Thành Đạt, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết ngành công nghệ vật liệu mới được xác định là một trong bốn lĩnh vực công nghệ cao được ưu tiên (cùng với công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, và công nghệ tự động hoá). Từ năm 2001 luôn có một chương trình khoa học và công nghiệp trọng điểm cấp quốc gia về nghiên cứu, ứng dụng và phát triển vật liệu mới. Bên cạnh đó, các nội dung nghiên cứu, ứng dụng vật liệu cũng đã được ưu tiên lồng ghép trong các chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia khác.
Bộ trưởng nhấn mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đã hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp trong nước tăng cường tiềm lực, đặc biệt góp phần đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ nghiên cứu, qua đó làm chủ được các công nghệ mới, tiên tiến của thế giới.
"Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp vật liệu . Việc phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ngành công nghiệp vật liệu của Việt Nam phải tương xứng với tiềm năng, đáp ứng nhu cầu, chủ động phát triển các ngành kinh tế," ông Đạt nói.
Tại hội thảo, các tham luận tập trung phân tích, làm rõ tình hình phát triển công nghiệp và ngành công nghiệp vật liệu của Việt Nam, thực trạng nguồn nhân lực cũng như nhận diện bối cảnh, xu thế và tư duy, cách tiếp cận mới trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đạo hóa đến năm 2030, tầm nhìn 2045...
Đại diện trong lĩnh vực đào tạo, ông Vũ Hải Quân, Giám đốc Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cho biết trong chiến lược phát triển giai đoạn mới của trường là tiếp tục tạo ra những công trình nghiên cứu khoa học quan trọng đồng thời đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng giáo dục đại học góp phần đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Hội thảo quốc tế "Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp vật liệu đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045," ngày 10/4. (Ảnh: Vietnam )
Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Để thực hiện các mục tiêu này, Nghị quyết Đại hội XIII đã xác định 3 đột phá chiến lược và 12 định hướng lớn, trong đó một định hướng rất quan trọng là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Xuất phát từ yêu cầu này, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã giao Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp các bộ, ngành, địa phương, cơ quan liên quan và các chuyên gia trong nước và quốc tế nghiên cứu, xây dựng Đề án "Chủ trương, chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045," dự kiến trình Hội nghị Trung ương lần 6 vào năm 2022.
Theo đó, hội thảo quốc tế về phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp vật liệu đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại là một chủ đề quan trọng liên quan đến nội dung của Đề án trên./.
Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp vật liệu đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước. (Ảnh: Vietnam )
Chính phủ đặt mục tiêu có 500 doanh nghiệp công nghệ cao Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030, cả nước sẽ có khoảng 500 doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao và 200 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu cụ thể của Chương...