Phương pháp chữa khỏi ung thư máu
12 năm sau khi được ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài, anh Lâm Tiến Bình ( Lạng Sơn) từ bệnh nhân ung thư máu đã trở thành người khỏe mạnh bình thường.
Anh Bình là một trong số hàng nghìn bệnh nhân được ghép tế bào gốc tạo máu tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương (Hà Nội). Không chỉ nhắc tới anh Bình, suốt cuộc trò chuyện với Zing, bác sĩ chuyên khoa II Võ Thị Thanh Bình, Trưởng khoa Ghép tế bào gốc, Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương, có thể kể rành rọt về từng bệnh nhân của mình với niềm vui khó che giấu.
Tiến bộ vượt bậc của nhân loại
Bác sĩ chuyên khoa II Võ Thị Thanh Bình, Trưởng khoa Ghép tế bào gốc, Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương. Ảnh: CT.
- Xin bác sĩ cho biết tế bào gốc là gì? Tại sao ghép tế bào gốc có thể chữa được bệnh?
- Tế bào gốc là nguyên thủy nhất của cơ thể, có thể biến đổi thành nhiều tế bào của các cơ quan khác nhau. Tế bào gốc tạo máu là loại tế bào có thể biến đổi thành tế bào máu mang chức năng khác nhau như hồng cầu để vận chuyển oxy, tiểu cầu chống chảy máu, bạch cầu tạo miễn dịch bảo vệ cơ thể.
Từ khi hiểu rõ vai trò của tế bào gốc tạo máu trong cơ thể cũng như cơ chế tổn thương tế bào gốc với các bệnh về máu, người ta đã tìm cách thay thế những tế bào gốc bị bệnh bằng loại khỏe mạnh để giúp khắc phục triệu chứng do bệnh gây ra.
Ghép tế bào gốc tạo máu là một trong những tiến bộ vượt bậc của nhân loại ngày nay. Nhờ ghép tế bào gốc tạo máu, nhiều trường hợp bệnh nan y đã có khả năng chữa khỏi với 2 cơ chế.
Thứ nhất, khi ghép vào cơ thể, tế bào gốc đó sinh máu sẽ hỗ trợ việc truyền hóa chất mạnh hơn, nhằm tiêu diệt tối đa tế bào ung thư. Mục tiêu thứ 2 là nhờ tế bào gốc của người hiến, tế bào sinh máu trong cơ thể bệnh nhân được hồi phục, đặc biệt là tế bào miễn dịch. Từ đó, quá trình hồi phục, khỏi bệnh được đẩy nhanh.
Ghép tế bào gốc tạo máu gồm ghép đồng loài (lấy tế bào gốc tạo máu người thân cùng huyết thống hoặc người cho không cùng huyết thống truyền cho người bệnh), ghép tự thân (lấy khối tế bào gốc tạo máu của người bệnh được thu gom và lưu trữ, sau đó truyền trả lại cho người bệnh).
Ghép tự thân là dùng tế bào gốc của bệnh nhân ghép cho họ nên chỉ hỗ trợ quá trình truyền hóa chất. Điều này giúp vượt qua giai đoạn tủy tổn thương rất sâu, tức là chỉ đẩy lui được bệnh chứ không thể khỏi hoàn toàn. Để khỏi được bệnh, phải đảm bảo mục tiêu thứ 2 kể trên. Điều đó có nghĩa chỉ ghép đồng loài, người mắc mới khỏi bệnh.
- Nhiều người nghĩ rằng ung thư là chết. Ung thư máu lại càng khó sống hơn. Bác sĩ nghĩ sao về điều này?
Video đang HOT
- Hầu hết nhóm bệnh ung thư máu khi dừng lại ở điều trị hóa chất, người mắc chỉ đẩy lui được bệnh, thời gian ngắn hay dài tùy thuộc vào từng thể bệnh. Nếu chỉ dừng lại ở đó, không có những phương pháp tích cực, bệnh nhân thường không thoát khỏi tử thần. Ung thư máu khó hơn bởi có những biến chứng nhanh. Nhưng như đã nói, bệnh nhân ung thư máu vẫn có thể khỏi bệnh khi ghép tế bào gốc đồng loài.
Thực tế, rất nhiều bệnh nhân có cơ hội sống lâu. Khả năng cũng như tỷ lệ khỏi bệnh khác nhau, phụ thuộc từng thể, tình trạng bệnh nhân cũng như tình trạng trước khi đi vào ghép. Nếu bệnh nhân có chỉ định, kế hoạch ghép sớm, xác suất điều trị khỏi cao hơn.
Trên thế giới, với nhóm bệnh ác tính, một trong những biến chứng vẫn làm đau đầu các nhà khoa học là bệnh nhân tái phát tình trạng ác tính, có thể dẫn tới tử vong và thất bại của việc ghép tế bào gốc. Nhưng bằng những tiến bộ trong quy trình ghép, phương pháp, chiến lược mới, ví dụ điều trị dự phòng tái phát sau ghép, thuốc mới…, tỷ lệ thành công trên thế giới đã cao hơn, khoảng 70-80%.
Hiện tại, ở Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương, tỷ lệ bệnh nhân ung thư máu gộp chung các giai đoạn có cơ hội khỏi chiếm 60%. Với những nhóm lành tính, cơ hội chữa khỏi cao hơn, đạt 70-80% nếu điều trị kịp thời, đúng thời điểm và có kế hoạch tốt cho bệnh nhân.
Anh Lâm Tiến Bình chia sẻ kinh nghiệm vượt qua khó khăn của mình. Ảnh: Công Thắng.
Như được sinh ra lần thứ 2
- Chắc hẳn có nhiều bệnh nhân đã được sống khỏe mạnh như vậy?
- Một trường hợp mà tôi rất nhớ là bé gái – con 2 người đồng nghiệp của tôi. Bé được chẩn đoán suy tủy xương vào năm 2013. Cùng năm đó, cha của bé qua đời vì ung thư gan. Trước khi mất, anh nói với vợ tâm nguyện muốn con gái được ghép tủy tại viện chúng tôi. Trước đó, họ sinh thêm một bé trai và lưu trữ máu dây cuống rốn tại Bệnh viện Nhi Trung ương (Hà Nội).
Với sự tin tưởng của người cha đã khuất, chúng tôi quyết tâm nhưng cũng thấy rất áp lực khi thực hiện ca ghép cho bé. Tỷ lệ tử vong liên quan ghép có thể lên đến 20-30% tuỳ phương pháp ghép. Thêm nữa, liều tế bào gốc đơn vị máu dây rốn đã có chưa đủ cho cháu bé.
Ê-kíp từ Bệnh viện Nhi Trung ương hỗ trợ gây mê và lấy thêm tế bào gốc ở tủy xương của em trai lúc đó mới gần 4 tuổi. Với bé này, trong quá trình ghép cũng không thuận lợi hoàn toàn, vì liều tế bào gốc ở tủy xương và máu dây rốn có được thấp hơn máu ngoại vi nên mảnh ghép chỉ đạt 70-80% trong những tháng đầu sau ghép. Nhưng dần đến tháng thứ 9, mảnh ghép của cháu ổn định và xét nghiệm máu hoàn toàn bình thường.
Sau 6 năm ghép, bé rất hạnh phúc vì có thể tự đạp xe đến trường, việc trước đó bé không thể làm. Mẹ cháu cho biết cháu học giỏi môn sinh, quyết tâm thi vào ngành y. Tôi rất mừng.
Một bệnh nhân khác bị ung thư máu khi vợ vừa sinh con. “Quan điểm của em là sẽ sống mãi để con biết cha hoặc con sẽ không bao giờ biết tới cha luôn” – bệnh nhân quyết tâm ghép tế bào gốc từ em trai. Thành quả là bây giờ, bạn trở về hoạt động bình thường, sống với vợ con hạnh phúc.
Lưu trữ tế bào gốc máu dây rốn tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương. Ảnh: Công Thắng.
- Nhưng thực tế, quá trình ghép cũng không hẳn dễ dàng, người ghép tế bào gốc phải trải qua giai đoạn khó khăn như thế nào?
- Mặc dù đây là kỹ thuật điều trị hiện đại, hiệu quả, đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân, không phải không có một số biến chứng. Những biến chứng của ghép tế bào gốc đồng loại chủ yếu liên quan độc tính của phác đồ điều kiện hóa, nhiễm trùng do hậu quả của thuốc ức chế miễn dịch hay biến chứng ghép chống chủ cấp hay mạn và vấn đề tái phát bệnh.
Trong quá trình ghép tế bào gốc, người bệnh phải trải qua khoảng thời gian dài (1-3 tháng) trong phòng cách ly. Người bệnh phải vượt qua quá trình điều trị hóa chất liều cao, có tác dụng mạnh hơn. Điều này giúp tiêu diệt tế bào ác tính, tế bào miễn dịch tồn dư trong cơ thể, tạo điều kiện tốt để khi tế bào gốc vào cơ thể có thể phát triển ổn định. Hóa chất liều cao đồng thời cũng tiêu diệt các tế bào lành tính, dẫn đến tình trạng thiếu máu, nhiễm trùng, xuất huyết, viêm loét…
Đối với người bệnh, quá trình ghép tế bào gốc là hành trình đầy khó khăn và thử thách cả về tinh thần và thể chất. Nhiều người bệnh gọi đó là cuộc chiến “sinh tử”, “như được sinh ra lần thứ 2″.
Người bệnh thực sự rất cần thêm kiến thức từ các chuyên gia/bác sĩ để có biện pháp chăm sóc, duy trì sức khỏe. Đồng thời, họ cũng cần sự chia sẻ, động viên, được truyền thêm hy vọng và động lực từ những người bệnh đã ghép tế bào gốc để vượt qua cuộc chiến cam go bệnh tật.
Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương thành lập Câu lạc bộ Bệnh nhân ghép tế bào gốc là vì thế. Hy vọng rằng câu lạc bộ sẽ trở thành điểm tựa tinh thần của người bệnh, là cầu nối để đội ngũ nhân viên y tế chăm sóc, hỗ trợ tốt hơn cho người bệnh ghép.
Những tiến bộ trong điều trị ung thư máu
Thử nghiệm lâm sàng dẫn đến các đột phá trong điều trị ung thư máu như thuốc "thông minh", thuốc hóa trị kiểu mới, liệu pháp sinh học hay miễn dịch trúng đích.
Hàng nghìn nghiên cứu về bệnh bạch cầu, còn gọi là ung thư máu, được tiến hành, đem lại kết quả khả quan trong điều trị. Các biện pháp điều trị được bác sĩ chỉ định cho bệnh nhân dựa trên nhiều yếu tố, bao gồm loại bệnh và giai đoạn của bệnh.
Những loại thuốc "thông minh"
Trong một thời gian dài, thuốc điều trị ung thư trước đây đã không còn được ưa dùng bởi chúng tấn công cả tế bào khỏe mạnh lẫn tế bào ung thư. Hiện nay, thuốc điều trị ung thư đã "thông minh" hơn. Chúng chỉ tấn công các tế bào ung thư mà không phá hủy các tế bào khỏe mạnh khác.
Người mắc ung thư máu dòng tủy mạn tính (CML) có thể dùng những loại thuốc này. Trước đây, CML là căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng. Các loại thuốc hiện nay có thể ngăn chặn protein bất thường tạo ra bởi các đột biến trong nhiễm sắc thể gây bệnh CML.
Liệu pháp miễn dịch với mục tiêu xác định
Các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm liệu pháp miễn dịch với mục tiêu xác định để điều trị một vài loại bạch cầu. Khi sử dụng phương pháp này, hệ miễn dịch sẽ tìm và phá hủy các tế bào mang gene bất thường, có khả năng gây bệnh. Biện pháp này bảo vệ các tế bào khỏe mạnh khi phải trải qua hóa trị.
Bệnh bạch cầu tăng lympo bào cấp tính (ALL) là vô cùng nguy hiểm. Bác sĩ sẽ sử dụng liệu pháp miễn dịch với mục tiêu xác định khi điều trị cho người lớn. Liệu pháp vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng nhưng đem lại hy vọng cho những bệnh nhân mắc ALL.
Thuốc hóa trị mới
Hóa trị được sử dụng để chữa nhiều loại ung thư, bao gồm bạch cầu. Các loại thuốc hóa trị mới có khả năng xác định và phá hủy các tế bào ung thư máu tốt hơn. Các loại thuốc đang thử nghiệm cho bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu cấp tính dòng tủy (AML) bao gồm tipifarnib, bortezomib, sapacitabine và laromustine.
Cấy ghép tế bào gốc
Hầu hết loại thuốc hóa trị đều tiêu diệt cả tế bào ung thư lẫn tế bào khỏe mạnh. Sử dụng thuốc hóa trị liều cao còn có thể phá hủy tế bào tủy xương, ngăn sự sản sinh của các tế bào máu mới, khỏe mạnh.
Để giải quyết vấn đề này, một biện pháp điều trị khác là cấy ghép tế bào gốc. Bác sĩ sẽ đưa tế bào gốc khỏe mạnh từ người hiến tặng vào cơ thể của người bị bạch cầu. Sau đó, tế bào tủy xương sẽ sản sinh các tế bào máu khỏe mạnh. Hiện này, những bệnh nhân ung thư phải sử dụng hóa trị liều lượng cao thường kết hợp cả hóa trị và cấy ghép tế bào gốc.
Liệu pháp sinh học
Còn được gọi là liệu pháp miễn dịch, liệu pháp sinh học giúp hệ miễn dịch thiết lập cơ chế tự bảo vệ và chống lại các tế bào bệnh bạch cầu. Phương pháp ít tác dụng phụ hơn so với các cách điều trị khác. Liệu pháp sinh học được sử dụng độc lập, kết hợp với hoá trị hoặc sử dụng sau các liệu pháp khác.
Thử nghiệm lâm sàng
Các thử nghiệm lâm sàng nghiên cứu thuốc và liệu pháp khác nhau. Sự kết hợp của các liệu pháp điều trị vẫn đang được tiến hành trên nhiều giai đoạn của bệnh bạch cầu. Các thử nghiệm tiến hành đối với người mới được chẩn đoán và với người đã mắc bệnh này trong nhiều năm. Một số thử nghiệm dẫn đến biện pháp điều trị mới nhất.
Bé trai mắc ung thư máu kiên cường trải qua 3 lần ghép tế bào gốc Hai trong số 3 lần ghép tế bào gốc đều thất bại khiến cơ hội sống của bé Phạm Nguyên Hà càng mong manh. Nhưng may mắn đã mỉm cười với bệnh nhi này. Năm 3 tuổi, khi đang chơi đùa cùng các bạn, cậu bé Phạm Nguyên Hà phát hiện hai đầu gối có vết tím bầm kèm theo những cơn sốt...