Phát triển ngành đồng bộ theo hướng hiện đại hoá và tự động hóa
Trải qua 75 năm xây dựng và phát triển, với mục tiêu phục vụ phòng, chống thiên tai, phát triển kinh tế – xã hội, ngành Khí tượng thủy văn đã không ngừng vươn lên, phục vụ ngày càng tốt hơn, có hiệu quả hơn đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhiều thành tựu nổi bật
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hồng Thái – Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng thủy văn, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, ngành đã ban hành khẩu hiệu hành động với ý nghĩa của khẩu hiệu là “thống nhất – chính xác – liên tục – tin cậy – kịp thời” nhằm thể hiện cam kết của ngành trước yêu cầu của Đảng, Nhà nước, cộng đồng xã hội và từng người dân về việc tăng cường quản lý nhà nước hoạt động khí tượng thủy văn, phục vụ hiệu lực, hiệu quả sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội bền vững, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia và phòng, chống thiên tai.
Ảnh cắt rada Quy Nhơn (Ảnh: Tổng cục Khí tượng thủy văn cung cấp)
Với những chiến lược, kế hoạch hành động quyết liệt, bám sát thực tiễn đã từng bước tạo ra những đột phá trong toàn ngành. Trong đó, mạng lưới quan trắc được mở rộng, đổi mới công nghệ dự báo khí tượng thủy văn, làm chủ công nghệ phục vụ phòng chống thiên tai và phát triển bền vững. Thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn đã thực sự là cơ sở dữ liệu “đầu vào” cho hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội.
Cụ thể, từ mạng lưới trạm khí tượng thủy văn thưa thớt, xuống cấp, đến nay đã có 579 trạm, điểm đo, trong đó có 233 trạm thủy văn, 176 trạm khí tượng, 17 trạm hải văn, 155 trạm/điểm đo môi trường không khí và nước, hàng trăm điểm đo mưa nhân dân; mạng lưới trạm khí tượng cao không với 6 trạm thám không vô tuyến, 8 trạm đo gió trên cao bằng máy kinh vĩ quang học, 3 trạm đo tổng lượng ôzôn – bức xạ cực tím và 7 trạm rada thời tiết trải khắp mọi miền đất nước từ vùng biên giới, núi cao đến hải đảo xa. Hệ thống công trình đo đạc, nhà cửa của nhiều trạm đã được kiên cố hóa, máy móc, thiết bị lạc hậu được loại bỏ và đang tập trung hiện đại hóa công nghệ thiết bị chuyên ngành mới.
Đặc biệt, chất lượng các bản tin dự báo không ngừng được nâng cao, đã dự báo tương đối sát, kịp thời các cơn bão và các đợt áp thấp nhiệt đới hoạt động trên khu vực Biển Đông; cảnh báo trước 48-72h các đợt không khí lạnh, nhiều đợt rét đậm, rét hại; dự báo sát mực nước đỉnh lũ, mực nước kiệt trên các sông trong cả nước và xâm nhập mặn các cửa sông vùng ven biển.
Bên cạnh đó, ngành đã tham mưu xây dựng và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các chiến lược, đề án, văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như chiến lược phát triển ngành Khí tượng thủy văn đến năm 2020; Đề án hiện đại hoá công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn, giai đoạn 2010-2012. Đặc biệt, ngày 23/11/2015, đã được Quốc hội khóa XIII thông qua Luật khí tượng thủy văn, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016. Đến nay, ngành Khí tượng thủy văn đã xây dựng được hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện quản lý nhà nước về công tác khí tượng thủy văn.
Ngoài ra, công tác nghiên cứu khoa học có bước phát triển mạnh. Đáng chú ý là kết quả nghiên cứu dự báo bằng phương pháp số trị và ra các bản tin dự báo, thông báo về dự báo khí hậu, dự báo thời tiết, dự báo thủy văn và môi trường, cụ thể như: mô hình số trị dự báo thời tiết được áp dụng để dự báo bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn và dự báo thời tiết hàng ngày; áp dụng các mô hình dự báo khí hậu khác nhau để ra các thông báo và dự báo khí hậu hàng tháng; xây dựng quy trình dự báo và vận hành công trình phòng chống lũ trong trường hợp khẩn cấp…
Tiến tới mục tiêu xã hội hóa ngành Khí tượng thủy văn
Cùng với những kết quả đã đạt được, ngành Khí tượng thủy văn gặp khó khi thực hiện công tác điều tra cơ bản, dự báo, thông tin tư liệu khí tượng thủy văn, quan trắc môi trường không khí và môi trường nước trong điều kiện cơ sở vật chất, hệ thống mạng lưới kỹ thuật chưa đồng bộ, mạng lưới trạm quan trắc còn thưa nên nguồn số liệu đầu vào phục vụ công tác dự báo vẫn còn khó khăn. Trong khi đó, mô hình dự báo chuyên dùng cho Việt Nam đang trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện do đó việc cải tiến và đa dạng hóa bản tin, chuẩn hóa mẫu bản tin đã được thực hiện nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cộng đồng.
Video đang HOT
Quan trắc viên trạm Thủy văn cấp Hồi Xuân quan trắc mực nước (Ảnh: Tổng cục Khí tượng thủy văn cung cấp)
Hơn nữa, nhiều vấn đề khoa học công nghệ về dự báo trong nước và trên thế giới chưa thực hiện được như dự báo định lượng mưa lơn trong trương hơp cưc đoan phạm vi hẹp; cảnh bao lu quet, sat lơ đât mới chỉ đạt được ở mức cảnh báo có nguy cơ trên một khu vực rộng, chưa cảnh báo được ở một vị trí cụ thể; việc thu nhận số liệu hồ chứa từ các chủ hồ phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thủy văn vùng hạ du hồ còn nhiều bất cập đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn.
Chia sẻ về những mục tiêu được ngành đặt ra trong chặng đường tiếp theo, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hồng Thái cho biết với vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, đặc biệt là trong công tác phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, đầu tư cho ngành Khí tượng thủy văn cần đi trước một bước để cung cấp kịp thời, chính xác thông tin và luận cứ khoa học về khí tượng thủy văn cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong giai đoạn sắp tới, ngành sẽ tập trung các nguồn lực để phát triển ngành đồng bộ theo hướng hiện đại hoá và tự động hóa, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật khí tượng thủy văn trong phạm vi cả nước, nâng cao năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, trọng tâm là dự báo, cảnh báo các thiên tai liên quan đến bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất… đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, phục vụ phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai.
Với định hướng đó, ngành Khí tượng thủy văn lấy việc đầu tư cho khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực làm giải pháp chủ yếu để phát triển trên cơ sở kế thừa và phát huy tối đa nguồn lực hiện có; khai thác triệt để thành tựu khoa học, công nghệ trong nước, đồng thời ứng dụng chọn lọc những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Đồng thời, ngành tiêp tuc cung cô va hoan thiên hệ thống mang lươi trạm quan trắc quốc gia, trong đó tập trung đầu tư phát triển hệ thống trạm quan trắc tự động nhăm bao đam thu thâp đây đu va chinh xac cac sô liêu, đap ưng yêu câu canh bao, dư bao khí tượng thủy văn, phuc vu phong chông thiên tai, phat triên kinh tê – xa hôi, an ninh quôc phong, khai thac tai nguyên va môi trương.
Để thực hiện các mục tiêu đó, bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, ngành Khí tượng thủy văn đặt mục tiêu đưa ra những chính sách kêu gọi sự tham gia của khối kinh tế tư nhân trong công tác khí tượng thủy văn, từ đó, tạo ra thị trường dịch vụ khí tượng thủy văn, làm sao tiến tới mục tiêu quan trọng là xã hội hóa ngành Khí tượng thủy văn.
GS-TS Trần Hồng Thái - Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng thủy văn (Bộ TNMT): Luôn ưu tiên đầu tư cho con người
Ngày 17/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 3/10 hàng năm là Ngày truyền thống ngành khí tượng thủy văn (KTTV) Việt Nam.
Đây là dấu mốc quan trọng ghi nhận những nỗ lực của ngành đóng góp vào sự phát triển bền vững đất nước.
Nhân dịp kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống ngành KTTV, phóng viên Báo NTNN đã có cuộc phỏng vấn GS-TS Trần Hồng Thái (ảnh) - Tổng cục trưởng Tổng cục KTTV (Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Không ngừng vươn lên
Trong hành trình 75 năm qua đó, ngành KTTV gặp phải những khó khăn, thách thức gì, thưa ông?
- Ngày 3/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 41 đưa Sở Thiên văn và Đài Thiên văn Phủ Liễn về trực thuộc Bộ Giao thông Công chính (sau đổi thành Nha Khí tượng - Tổ chức tiền thân của Tổng cục KTTV ngày nay). Từ đó đến nay, trải qua 75 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành KTTV đã không ngừng vươn lên đóng góp vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước, phục vụ ngày càng tốt hơn, có hiệu quả hơn đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngành đã gặp không ít khó khăn khi thực hiện công tác điều tra cơ bản, dự báo, thông tin tư liệu KTTV, quan trắc môi trường không khí và môi trường nước trong điều kiện cơ sở vật chất, hệ thống mạng lưới kỹ thuật chưa đồng bộ, mạng lưới trạm quan trắc còn thưa nên nguồn số liệu đầu vào phục vụ công tác dự báo vẫn còn khó khăn. Trong khi đó, mô hình dự báo chuyên dùng cho Việt Nam đang trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện, do đó việc cải tiến và đa dạng hóa bản tin, chuẩn hóa mẫu bản tin đã được thực hiện nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cộng đồng.
Hơn nữa, nhiều vấn đề khoa học công nghệ về dự báo trong nước và trên thế giới chưa thực hiện được như: Dự báo định lượng mưa lớn trong trường hợp cực đoan phạm vi hẹp; cảnh báo lũ quét, sạt lở đất mới chỉ đạt được ở mức cảnh báo có nguy cơ trên một khu vực rộng, chưa cảnh báo được ở một vị trí cụ thể...
Ngành KTTV đã làm gì để nâng cao năng lực mạng lưới quan trắc phục vụ dự báo và phát triển các ngành kinh tế và đời sống xã hội, thưa ông?
- Với hoạt động tác nghiệp của ngành từ những bản tin dự báo thời tiết hàng ngày phục vụ người dân trong sinh hoạt thường nhật, đến những bản tin dự báo chuyên dùng cho các ngành kinh tế, sản xuất, như nông nghiệp, công nghiệp hay vận tải hàng không KTTV và các sản phẩm dịch vụ đã trở thành một phần không thể thiếu trong sự phát triển bền vững và ổn định xã hội. Đến nay ngành KTTV đã và đang bảo quản tuyệt đối an toàn với 40 trạm có chuỗi số liệu dài 100 - 135 năm, hàng trăm trạm có chuỗi số liệu dài từ 20 - 50 năm, đó là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia, là nền tảng cho việc nghiên cứu khoa học, phục vụ chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, phòng chống thiên tai...
Các cán bộ Trạm khí tượng Sa Pa (Lào Cai) trao đổi nghiệp vụ quan sát và ghi thông số nhiệt quang ký (đo nắng hàng ngày). Ảnh: P.V
"Trong thời đại 4.0 này, để đưa ra những sản phẩm dự báo chính xác và kịp thời, các thiết bị máy móc đã được nâng cấp với công suất cao hơn, tự động hóa nhiều hơn, và vấn đề mấu chốt là đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao".
GS - TS Trần Hồng Thái
Đặc biệt, để phục vụ công tác phòng chống thiên tai, ngành KTTV định hướng hiện đại hóa các phần mềm, mô hình dự báo lũ, lũ quét, sạt lở đất trên cả nước; tối ưu mô hình hồ chứa bao gồm tích hợp quy trình vận hành liên hồ; tích hợp các mô hình vào hệ thống hỗ trợ dự báo thủy văn; thí điểm dự báo lũ dựa vào tác động; cảnh báo ngập lụt và ô nhiễm cho các đô thị lớn và khu vực đông dân cư...
Đào tạo nhân lực là giải pháp chủ yếu
- Cho đến nay hầu hết cac thanh tưu mơi cua nhân loại trong lĩnh vưc công nghê thông tin đa đươc ưng dung trong lĩnh vưc truyền tin KTTV: Hệ thống mạng LAN, Internet trong nôi bô, truyền tin vê tinh, GPRS... kết nối cac tram tư đông vơi trung tâm. Công nghê tính toan cung tưng bươc đươc phat triển như hê thống may tính hiêu năng cao, siêu may tính mini... Đến hôm nay, dự báo số trị luôn được phát triển và hiện nay là những mô hình dự báo được chạy trên nền tảng hệ thống siêu máy tính hiệu năng cao với tổng năng lực tính toán khoảng 16Tflops. Hàng ngày, hệ thống dự báo thời tiết số trị cung cấp từ 2 - 4 bản tin dự báo.
Đặc biệt, với công nghệ dự báo tổ hợp, các bản tin dự báo xác suất được đưa vào nghiệp vụ phục vụ hiệu quả cộng đồng với các bản tin dự báo thời tiết cực ngắn, dự báo mưa lớn trong những tình huống thời tiết nguy hiểm được các dự báo viên Trung tâm Dự báo KTTV nghiên cứu phát triển. Bên cạnh đó việc tăng cường hợp tác quốc tế, ứng dụng khoa học, công nghệ trong nước khiến dự báo, cảnh báo của ViệtNam tiệm cận dần các nước tiên tiến trên thế giới, đặc biệt là dự báo bão, không khí lạnh, hạn hán, xâm nhập mặn...
Ngành KTTV đã và đang bảo quản tuyệt đối an toàn với 40 trạm có chuỗi số liệu dài 100 - 135 năm, hàng trăm trạm có chuỗi số liệu dài từ 20 - 50 năm.
Dự báo mưa, lũ ở mức khá trong khu vực và ở mức trung bình so với các nước tiên tiến. Minh chứng là WMO (Tổ chức Khí tượng thế giới - PV) đã giao Việt Nam hỗ trợ dự báo thời tiết nguy hiểm khu vực Đông NamÁ trong công tác dự báo, cảnh báo các hiện tượng KTTV nguy hiểm như mưa lớn, gió mạnh, lũ quét. Lần đầu tiên đại diện của Việt Nam được WMO giới thiệu và được tín nhiệm bầu là Phó Chủ tịch Hiệp hội Khí tượng khu vực II châu Á (RAII). Đây là những thành quả nỗ lực của ngành KTTV Việt Nam trong suốt chặng đường 75 năm lịch sử.
Trong thời đại 4.0 này, để đưa ra những sản phẩm dự báo chính xác và kịp thời, các thiết bị máy móc đã được nâng cấp với công suất cao hơn, tự động hóa nhiều hơn, và vấn đề mấu chốt là đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao. Do vậy, chúng tôi luôn dành sự ưu tiên cho đầu tư vào con người, liên tục ưu tiên tuyển dụng cán bộ giỏi, có năng lực đồng thời tạo điều kiện tham gia các khóa học nâng cao, trao đổi kiến thức và công nghệ với các đối tác đào tạo...
Ngành đặt mục tiêu gì trong chặng đường sắp tới, thưa Tổng Cục trưởng?
- Trong giai đoạn sắp tới, ngành KTTV sẽ tập trung các nguồn lực để phát triển ngành đồng bộ theo hướng hiện đại hoá và tự động hóa, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật KTTV trong phạm vi cả nước, nâng cao năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo KTTV, trọng tâm là dự báo, cảnh báo các thiên tai liên quan đến bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất... đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và phục vụ phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai được dự báo là ngày càng phức tạp, khó lường.
Với định hướng đó, ngành KTTV lấy việc đầu tư cho khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực làm giải pháp chủ yếu. Đồng thời, tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống mạng lưới quan trắc quốc gia, trong đó tập trung đầu tư phát triển hệ thống trạm quan trắc tự động, nhằm bảo đảm thu nhập đầy đủ và chính xác các số liệu, đáp ứng yêu cầu cảnh báo, dự báo KTTV, phục vụ phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, khai thác tài nguyên và môi trường.
Để thực hiện các mục tiêu đó, bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, ngành KTTV đặt mục tiêu đưa ra những chính sách kêu gọi sự tham gia của khối kinh tế tư nhân trong công tác KTTV. Từ đó, tạo ra thị trường dịch vụ KTTV, làm sao tiến tới mục tiêu quan trọng là xã hội hóa ngành KTTV.
Xin cảm ơn ông!
Tổng bí thư, Chủ tịch nước gửi thư chúc mừng ngành KTTV Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vừa gửi thư chúc mừng ngành Khí tượng Thủy văn Việt Nam, nhân kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống của ngành. Ngày 30-9, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã gửi thư chúc mừng ngành Khí tượng Thủy văn Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống...