Phát triển chăn nuôi theo vùng gắn với chế biến và thị trường
Ngành chăn nuôi đang có mức tăng trưởng từ 5-6% hàng năm.
Công nhân vệ sinh chuồng trại tại Công ty TNHH Gia Phát Hoà Bình. Ảnh minh họa: Thanh Hải/TTXVN
Nhiều địa phương thực hiện chuyển đổi nhanh cơ cấu từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi gia trại, trang trại công nghiệp; từng bước gắn với giết mổ, chế biến tập trung và phát triển thị trường tiêu thụ.
Đây cũng chính là hướng đi để ngành chăn nuôi tiếp tục phát triển trong bối cảnh dịch bệnh, giá vật tư đầu vào tăng cao… cũng như giải quyết bài toán “lối ra” cho các sản phẩm.
Nếu như năm 2011, cả nước có khoảng trên 4,13 triệu cơ sở chăn nuôi lợn thì đến năm 2016, số lượng giảm xuống còn 3,4 triệu cơ sở và sau đợt khủng hoảng 2017 về giá thịt lợn, số cơ sở còn khoảng 2,5 triệu. Đến năm 2020, cả nước chỉ còn khoảng 2 triệu cơ sở chăn nuôi lợn. Trung bình mỗi năm, tỷ lệ chăn nuôi nông hộ giảm từ 5-7%/năm. Riêng năm 2019 – 2021, cơ sở chăn nuôi nhỏ quy mô nông hộ giảm từ 15-20%.
Số cơ sở quy mô từ 1.500 con trở lên là 1.627, chiếm 24,2% tổng đàn lợn của cả nước. Trong đó, nổi bật là 16 doanh nghiệp, có quy mô tới 5,8 triệu con, chiếm 20,7% tổng đàn cả nước. Ngành chăn nuôi đang chuyển dịch từ chăn nuôi nhỏ lẻ hộ gia đình sang chăn nuôi chuyên nghiệp và trang trại quy mô lớn.
Tại Hà Nội đến nay đã có 557 trang trại chăn nuôi sử dụng công nghệ chuồng kín; 26 trang trại sử dụng công nghệ dây chuyền cho ăn uống tự động; 200 trang trại sử dụng công nghệ bán tự động; 35 trang trại sử dụng công nghệ nuôi trên sàn nhựa… Để tạo ra sản phẩm chăn nuôi an toàn, ứng dụng công nghệ cao, ngành nông nghiệp Hà Nội tiếp tục phối hợp với các địa phương quy hoạch khu chăn nuôi theo vùng, xã, trọng điểm, xa khu dân cư, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Hà Nội khuyến khích người dân phát triển chăn nuôi tập trung xa khu dân cư gắn với sơ chế, tiêu thụ, cung cấp dịch vụ chế biến; xây dựng, phát triển thương hiệu, mở rộng các hình thức liên kết trong sản xuất – tiêu thụ nông sản.
Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y cho biết, Hà Nội sẽ tập trung vào cơ cấu lại chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm với các đối tượng nuôi chủ lực. Đồng thời, phát triển 76 xã chăn nuôi sản phẩm chủ lực gồm 15 xã chăn nuôi bò sữa; 19 xã chăn nuôi bò thịt; 13 xã chăn nuôi lợn; 29 xã chăn nuôi gia cầm với 7.528 trại/trang trại chăn nuôi lớn, vừa, nhỏ. Cùng đó, thu hút các doanh nghiệp sản xuất gắn kết với các trang trại chăn nuôi để cùng đầu tư xây dựng thương hiệu sản phẩm, ký kết hợp tác với các tỉnh, thành phố bảo đảm mục tiêu về tiêu thụ sản phẩm có nguồn gốc.
Sản xuất trong nông hộ nhỏ lẻ giảm sẽ là cơ sở để ngành chăn nuôi hình thành các vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh, tiến tới xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi sang các thị trường. Để tạo tiền đề cho xuất khẩu, việc xây dựng chuỗi, vùng an toàn dịch bệnh trong những năm qua đã được các địa phương, doanh nghiệp và người chăn nuôi quan tâm triển khai.
Đến tháng 2/2022 cả nước có trên 3.500 lượt cơ sở, vùng được chứng nhận an toàn dịch bệnh với một và nhiều bệnh động vật. Tuy nhiên, chưa có cơ sở, vùng đạt an toàn dịch bệnh theo tiêu chuẩn của Tổ chức Thú y thế giới (OIE), việc xuất khẩu động vật, sản phẩm động vật của Việt Nam sang các nước còn hạn chế.
Hiện nay, một số sản phẩm động vật của Việt Nam đã được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường, điển hình như thịt gà chế biến xuất khẩu sang 7 nước và vùng lãnh thổ; sữa và sản phẩm sữa xuất khẩu sang gần 50 nước, nhất là thị trường Trung Quốc có tiềm năng rất lớn; thịt lợn sữa, lợn choai, lợn mảnh, trứng gia cầm… cũng đã được xuất khẩu sang một số thị trường. Tuy nhiên, việc xuất khẩu động vật, sản phẩm động vật của Việt Nam sang các nước còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của ngành chăn nuôi Việt Nam.
Video đang HOT
Theo ông Nguyễn Văn Long, Phó Cục trưởng Cục Thú y, từ đầu năm đến nay, Cục Thú y cũng đã hỗ trợ 9 doanh nghiệp có sản phẩm động vật xuất khẩu sang Hàn Quốc chuẩn bị hồ sơ đánh giá từ xa theo yêu cầu của Hàn Quốc. Cục đang hỗ trợ các công ty sữa có nhu cầu xuất khẩu sang Trung Quốc theo quy định mới của Lệnh 248 và Lệnh 249 của Trung Quốc. Trong quý I/2022, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã cấp phép thêm 2 nhà máy sản xuất sữa của Việt Nam được xuất khẩu sản phẩm sữa sang Trung Quốc, nâng tổng số nhà máy được cấp phép lên 11 nhà máy.
Trong 3 tháng đầu năm 2022, các doanh nghiệp đã xuất khẩu được 4.000 tấn sữa và sản phẩm sữa sang các nước, giá trị khoảng 5,5 triệu USD. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã xuất được 1.127 tấn thịt gà chế biến sang các nước, giá trị ước khoảng 5 triệu USD. Giá trị xuất khẩu bột cá và dầu cá đạt 40 triệu USD.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến, trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu động vật, sản phẩm động vật của Việt Nam, các đơn vị, địa phương và doanh nghiệp cần tập trung xây dựng thành công các chuỗi sản xuất, vùng chăn nuôi đạt yêu cầu an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn của quốc tế và của nước nhập khẩu; nâng cao chất lượng sản phẩm động vật xuất khẩu của Việt Nam nhằm đáp ứng được quy định của các thị trường nhập khẩu.
Các tỉnh, thành phố cần rà soát quy hoạch, phát triển chăn nuôi theo vùng sản xuất gắn với chế biến, bảo quản và thị trường tiêu thụ sản phẩm; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi trang trại công nghệ cao, theo chuỗi khép kín, bảo đảm an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.
Các cơ quan chuyên môn, các địa phương và các doanh nghiệp nghiên cứu kỹ các quy định của Việt Nam, quy định của quốc tế và yêu cầu của các nước nhập khẩu để có kế hoạch cụ thể và tổ chức xây dựng các chuỗi, vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh theo tiêu chuẩn của Tổ chức Thú y Thế giới (OIE), an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn của CODEX hướng đến xuất khẩu.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, các địa phương nên có chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chuỗi sản xuất khép kín, bao gồm cả nhà máy chế biến sản phẩm chăn nuôi nhằm đa dạng hóa chủng loại sản phẩm, phù hợp với từng thị trường, vùng miền, tăng khả năng xuất khẩu được sản phẩm.
Bộ chỉ đạo Cục Thú y thành lập Tổ công tác kỹ thuật thúc đẩy xuất khẩu động vật và sản phẩm động vật để tổ chức hướng dẫn, hỗ trợ địa phương, doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ xây dựng các vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu động vật, sản phẩm động vật.
Cục Chăn nuôi hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương, các doanh nghiệp rà soát quy hoạch và phát triển chăn nuôi theo vùng sản xuất gắn với chế biến, bảo quản và thị trường tiêu thụ sản phẩm; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi trang trại công nghệ cao, theo chuỗi khép kín nhằm bảo đảm an toàn dịch bệnh, các yêu cầu về vệ sinh thú y, truy xuất nguồn gốc.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến: Ngành chăn nuôi còn dư địa lớn, Bộ NNPTNT lập đề án phát triển thức ăn chăn nuôi
Ngành chăn nuôi nước ta được đánh giá có tiềm năng và dư địa phát triển rất lớn.
Tuy nhiên, từ năm 2019 tới nay, dịch bệnh trên vật nuôi liên tục bùng phát, dịch Covid-19 tác động đến sản xuất và tiêu dùng, giá thức ăn công nghiệp liên tục tăng cao đã làm không ít hộ chăn nuôi "nản lòng".
Theo Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển bền vững ngành chăn nuôi.
Trong thời gian vừa qua ngành chăn nuôi đã đẩy mạnh xây dựng vùng an toàn dịch bệnh để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Bộ NNPTNT đã có những chính sách gì để triển khai vùng an toàn dịch bệnh trong thời gian tới, thưa Thứ trưởng?
- Đầu tiên phải khẳng định an toàn dịch bệnh có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm. Trong những năm vừa qua, Bộ NNPTNT đã triển khai kế hoạch hành động cũng như định hướng cho năm tiếp theo. Mới đây, Hội nghị xây dựng vùng an toàn dịch bệnh đã được tổ chức tại Bình Phước. Phải khẳng định trong 1 năm qua chúng ta đã xây dựng được rất nhiều vùng an toàn dịch bệnh.
Đến nay, rất nhiều doanh nghiệp đầu tư vào chuỗi chăn nuôi khép kín, như: Dabaco, CP, De Heus, TH, Vinamilk... Các doanh nghiệp phối hợp với các địa phương xây dựng vùng an toàn dịch bệnh.
Tôi tin tưởng một cách chắc chắn rằng chúng ta giải quyết một cách đồng bộ từ con giống, thức ăn, thú y, phòng bệnh, xây dựng mô hình và xây dựng vùng an toàn dịch bệnh, chúng ta sẽ có sản lượng và giá trị sản lượng sẽ tăng rất nhanh.
Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển bền vững ngành chăn nuôi. Ảnh: Minh Ngọc
Ngành chăn nuôi được đánh giá có dư địa phát triển lớn. Để khai thác được dư địa này, xin Thứ trưởng cho biết, Bộ NNPTNT xây dựng chiến lược và chính sách gì để phát triển bền vững?
- Như chúng ta biết, tổng kết năm 2020 tỉ trọng ngành chăn nuôi 25,2% trong tổng giá trị ngành nông nghiệp. Để phát triển ngành chăn nuôi một cách bền vững, hiệu quả Bộ NNPTNT đã trình Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045 tại Quyết định số 1520 ngày 6/10/2020.
Mục tiêu cụ thể của Chiến lược là mức tăng trưởng giá trị sản xuất giai đoạn 2021 - 2025 trung bình từ 4 - 5%/năm; giai đoạn 2026 - 2030 trung bình từ 3 - 4%/năm.
Về định hướng phát triển chăn nuôi đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045: Chăn nuôi Việt Nam là ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại và được công nghiệp hóa ở hầu hết các khâu từ sản xuất, chế biến, bảo quản đến kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm, trong đó trình độ và năng lực sản xuất thuộc nhóm dẫn đầu các nước trong khu vực Đông Nam Á.
100% sản phẩm thịt gia súc, gia cầm hàng hóa được cung cấp từ các cơ sở giết mổ tập trung, công nghiệp và trên 70% khối lượng sản phẩm chăn nuôi chính được qua sơ chế, chế biến công nghiệp, trong đó có khoảng 30% được chế biến sâu.
Từ sau Tết Nguyên đán cho tới nay giá lợn hơi liên tục giảm, trong khi giá thức ăn công nghiệp liên tục tăng cao. Bộ NNPTNT đã có những giải pháp gì để "hạ nhiệt" về giá, đảm bảo thu nhập cho người chăn nuôi, thưa Thứ trưởng?
- Trong hơn 1 năm qua giá thức ăn công nghiệp tăng tương đối cao, đặc biệt đầu 2022 đã ảnh hưởng rất lớn đến ngành chăn nuôi. Trong khi thức ăn chiếm tới 65-70% giá thành.
Để giải quyết vấn đề này, sau nhiều năm nghiên cứu Viện Chăn nuôi cùng với các đơn vị đánh giá giá trị dinh dưỡng của các nguyên liệu ở các địa phương. Bằng phần mềm đưa ra được công thức thức ăn, phân tích giá trị thức ăn hỗn hợp. Kết quả nghiên cứu đã ứng dụng trên nhiều đối tượng.
Ví dụ như chăn nuôi lợn có lợn ngoại, lợn bản địa, chăn nuôi gia cầm và đã được xử lý, nghiệm thu, nhân rộng. Trong thời gian tới sẽ tiếp tục được nhân rộng hơn.
Với cách làm như vậy thì giá thức ăn sẽ giảm 300 - 1.000 đồng/kg. Giá thành chăn nuôi sẽ giảm được 5 - 7%. Với giải pháp này sẽ giúp giảm giá thành sản xuất trong chăn nuôi.
Bộ NNPTNT đang xây dựng đề án phát triển thức ăn chăn nuôi. Tuy nhiên công suất của các nhà máy chỉ đáp ứng được 50%. Vậy trong thời gian tới ngành sẽ có định hướng gì khi các nhà máy chưa phát huy hết năng lực, trong khi giá thành thức ăn công nghiệp ngày càng tăng cao như hiện nay?
- Đầu tiên, người chăn nuôi cần tận dụng tối đa các nguyên liệu sẵn có, rồi từ phế phụ phẩm nông nghiệp. Thứ hai là chuyển một số diện tích đất trồng trọt không hiệu quả sang để trồng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.
Bộ NNPTNT đã chỉ đạo Tập đoàn De Heus phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên để thành lập các HTX, tập trung chủ yếu vào phát triển vùng nguyên liệu trồng cây sắn và ngô để giảm áp lực nhập nguyên liệu từ nước ngoài.
Hiện cả nước có trên 200 nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi, công suất thiết kế và hoạt động còn chênh lệch rất lớn. Trong đề án phải giải quyết theo vùng miền gắn với các cơ sở chăn nuôi thì chúng ta phải có bước cơ cấu lại. Công nghệ như một dòng chảy, anh nào lạc hậu, không đảm bảo được tiêu chí thì tự đào thải.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!
Nông nghiệp Hà Nội: Nâng cao năng lực chế biến nông sản Sản xuất nông nghiệp chịu nhiều rủi ro bởi phụ thuộc vào thời tiết, dịch bệnh, đặc biệt khi dịch Covid-19 tác động mạnh đến chuỗi sản xuất - cung ứng. Do vậy, phát triển công nghiệp chế biến được coi là giải pháp tối ưu để nâng cao giá trị sản phẩm, bảo đảm nguồn nông sản phục vụ thị trường nội...