Phát huy tối đa hiệu quả đầu tư đường cao tốc
Sáng 7/11, Báo Đại biểu Nhân dân đã tổ chức tọa đàm “Phát triển đường bộ cao tốc ở Việt Nam và việc sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư”.
Tọa đàm có sự tham dự của các đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà quản lý.
Quang cảnh buổi tọa đàm. Ảnh: Báo Đại biểu Nhân dân.
Tại tọa đàm, các ý kiến khẳng định, kết cấu hạ tầng đường bộ, đặc biệt là đường bộ cao tốc đóng vai trò quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, được xác định là một trong 3 khâu đột phá chiến lược cần ưu tiên đầu tư đồng bộ, hiện đại, tạo tiền đề phát triển kinh tế – xã hội, gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh, an sinh xã hội, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Trong những năm qua, cùng với hệ thống đường bộ, hệ thống đường bộ cao tốc ở Việt Nam đã được quan tâm đầu tư mạnh mẽ, nhờ đó đã hình thành mạng lưới giao thông quan trọng trên khắp cả nước. Hệ thống đường cao tốc đã thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, đặc biệt tác động rõ nét đến thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước, nhất là các địa phương dọc theo tuyến đường cao tốc…
BÀ NGUYỄN THỊ YẾN, PHÓ BÍ THƯ THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY, TRƯỞNG ĐOÀN ĐBQH TỈNH BR-VT
Bảo đảm tính liên kết trong phát triển các dự án cao tốc
Video đang HOT
Tuyến đường bộ cao tốc TP. Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây là một trong hai tuyến cao tốc quan trọng, thiết yếu ở khu vực phía Nam. Tuyến cao tốc này có tổng chiều dài khoảng 55 km, là một bộ phận trong hệ thống đường cao tốc Bắc Nam, phía Đông, vị trí nằm trọn trong vùng tam giác kinh tế trọng điểm phía Nam giữa TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tuyến đường này cũng trở thành nhân tố rất quan trọng trong giải quyết tình trạng quá tải lưu lượng xe, ùn ứ cục bộ tại các điểm giao thông kết nối và giảm thiểu tai nạn giao thông trên Quốc lộ 51.
Tuyến cao tốc này góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, giao thương, thương mại sôi động hơn so với trước đây, mở ra bước đột phá trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là phát huy tiềm năng, lợi thế, thế mạnh của tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu như: Khai thác cảng chung chuyển quốc tế Cái Mép-Thị Vải; góp phần thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển trung tâm logistics, cảng trạm, hệ thống kho bãi cho hệ thống cảng biển tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
Mặt khác, khi kết nối với đại lộ Đông Tây, cầu Phú Mỹ, cầu Thủ Thiêm, tại điểm ở đầu TP. Hồ Chí Minh, tuyến cao tốc còn thúc đẩy nhanh sự phát triển các đô thị vệ tinh của TP. Hồ Chí Minh. Như vậy, việc hình thành tuyến cao tốc TP. Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển các lĩnh vực kinh tế-xã hội của khu vực Đông Nam Bộ và cho cả khu vực phía Nam.
Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ, các bộ, ngành cũng như các địa phương cần sớm triển khai dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Biên Hòa-Vũng Tàu và tuyến cao tốc đường vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh đi qua tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và cảng hàng không quốc tế Long Thành để đáp ứng nhu cầu về vận tải tốc độ cao, cũng như đảm bảo an toàn giao thông trên Quốc lộ 51, đảm bảo được giao thông kết nối trong vùng, trong khu vực phía Nam.
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mong muốn được Trung ương phối hợp cùng với các địa phương và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong việc kết nối giao thông trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, tạo sức mạnh để cạnh tranh kinh tế trên trường quốc tế.
Tính đến tháng 12/2020, tổng chiều dài các tuyến đường bộ cao tốc đã được đưa vào vận hành khai thác là trên 1.163 km, tổng chiều dài các tuyến cao tốc đang được đầu tư xây dựng trên cả nước là khoảng 911 km.
Như vậy, để hoàn thành mục tiêu 5.000 km theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 ban hành kèm theo Quyết định số 1454/QĐ-TTg ngày 1/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ, từ nay đến năm 2030 cần hoàn thành thêm khoảng 2.926 km đường cao tốc.
Để thực hiện mục tiêu trên, nhiều ý kiến nhận định, việc áp dụng các mô hình đầu tư xây dựng các tuyến đường cao tốc hiện nay như: Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP); đầu tư công; đầu tư theo mô hình tổng công ty Nhà nước là hạt nhân để phát triển mạng lưới đường cao tốc quốc gia, tương tự như mô hình đang áp dụng tại Nhật Bản, Hàn Quốc là phù hợp, song vẫn có những điểm nghẽn, bất cập cần tháo gỡ về mặt chính sách và khung pháp lý.
Từ đó, các đại biểu đã đề xuất nhiều biện pháp liên quan đến việc hoàn thiện cơ chế, chính sách về huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển các dự án cao tốc; các giải pháp để tháo gỡ khó khăn và phát huy tối đa hiệu quả các mô hình đầu tư, làm cơ sở tiếp tục triển khai xây dựng các tuyến đường cao tốc ở Việt Nam đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh-quốc phòng; việc bảo đảm tính liên kết trong phát triển các dự án cao tốc; công tác duy tu, bảo trì để bảo đảm an toàn, chất lượng cho tuyến đường bộ cao tốc;…
Quyết liệt hành động trước nguy cơ thiếu điện
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên vừa có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình cung ứng điện, đồng thời đưa ra các giải pháp cấp bách nhằm đảm bảo cung cấp điện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước cũng như đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Nhân viên EVN kiểm tra tình trạng vận hành của thiết bị điện. Ảnh: TTXVN
Trong báo cáo do Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương xác định 3 nguyên tắc chính đối với việc đảm bảo cung cấp điện trong năm 2022 và các năm tiếp theo, bao gồm: tập trung thực hiện các giải pháp đồng bộ đảm bảo đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sinh hoạt của nhân dân, trong mọi tình huống không để xảy ra thiếu điện; bám sát tăng trưởng nhu cầu điện, tình hình khôi phục và phát triển kinh tế để cập nhật dự báo phụ tải theo các kịch bản phụ tải cơ sở, kịch bản phụ tải phát triển cao trong điều kiện bình thường và điều kiện bất lợi nhất của năm 2022 và các năm tiếp theo để chỉ đạo, điều hành; Tập đoàn Điện lực Việt Nam giữ vai trò chủ đạo, chịu trách nhiệm chính trong đảm bảo cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội và các nhu cầu xã hội.
Căn cứ đánh giá về tình hình cung cấp điện trong thời gian tới, Bộ Công Thương và EVN đã đưa ra 5 giải pháp chính nhằm đảm bảo cung cấp điện.
Đó là thực hiện rà soát các dự án điện đang xây dựng và đưa vào vận hành trong giai đoạn 2021 - 2025, đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo tiến độ đã đề ra, chủ động tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong đầu tư xây dựng và vận hành các công trình nguồn và lưới điện
Bộ Công Thương dự kiến tổng công suất nguồn mới bổ sung năm 2022 đạt 3.164 MW, bao gồm: 1.930 MW nhiệt điện, 1.244 MW thủy điện; trong đó, có 1.132 MW thủy điện nhỏ. Bộ cũng đang chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam tập trung toàn lực, thúc đẩy dự án nhiệt điện Thái Bình 2 (1.200 MW) phấn đấu hòa lưới điện tổ máy số 1 vào tháng 5/2022.
Tiếp đến là rà soát các dự án có khả năng đẩy sớm tiến độ xây dựng và đưa vào vận hành để bổ sung khả năng cấp điện sớm trong giai đoạn từ nay đến năm 2025. Theo đó, Bộ Công Thương sẽ giao đơn vị chuyên môn rà soát các công trình nguồn và lưới điện đã có trong quy hoạch, kế hoạch, có giải pháp để đẩy sớm tiến độ thực hiện; đồng thời chỉ đạo EVN nghiên cứu thêm các giải pháp nhằm vận hành an toàn hệ thống điện, nhất là trong điều kiện tỷ lệ nguồn điện năng lượng tái tạo ở mức cao. Trước mắt rà soát trước các công trình thuộc khu vực miền Bắc để chống thiếu nguồn.
Cùng với đó, khẩn trương triển khai xây dựng các đường dây, trạm biến áp giải tỏa công suất các dự án hiện hữu, nhất là các công trình năng lượng tái tạo. Cụ thể, Bộ Công Thương sẽ tổ chức rà soát, chỉ đạo EVN đẩy nhanh tiến độ tất cả các công trình lưới điện đảm bảo việc giải tỏa công suất các nguồn điện đã xây dựng; trong đó, có các nguồn điện từ năng lượng tái tạo nhằm mục tiêu không để các nguồn điện đã xây dựng bị hạn chế công suất do quá tải. Trong khi chờ Luật Điện lực sửa đổi quy định về độc quyền truyền tải, cần tăng cường thu hút đầu tư của các chủ đầu tư nhà máy điện vào các công trình đấu nối.
Bộ Công Thương cũng chỉ đạo EVN đẩy nhanh tiến độ đàm phán, ký kết và triển khai thực hiện các Hợp đồng nhập khẩu điện từ Trung Quốc, Lào.
Đồng thời, Bộ Công Thương tiếp tục chỉ đạo EVN triển khai các giải pháp bảo đảm an toàn vận hành, bao gồm việc chỉ đạo các chủ đầu tư các nhà máy điện đảm bảo công tác quản lý, bảo dưỡng các tổ máy phát điện vận hành an toàn, ổn định; chỉ đạo EVN vận hành an toàn hệ thống lưới điện, đặc biệt là hệ thống truyền tải điện 500 kV Bắc - Nam và hệ thống truyền tải điện; EVN và các đơn vị thành viên làm việc với các khách hàng có nguồn điện dự phòng chuẩn bị sẵn sàng vận hành để bổ sung nguồn cung cấp điện trong trường hợp bất lợi không nhận được điện từ hệ thống. Đặc biệt, xây dựng và đề xuất cơ chế cho chương trình điều chỉnh phụ tải điện (Demand Response), bố trí lịch sửa chữa nguồn điện phù hợp, sử dụng tiết kiệm nguồn nước thủy điện, nâng cao khả dụng các nguồn điện, nhất là vào cao điểm mùa khô ở miền Bắc...
Trên cơ sở các nguyên tắc và giải pháp trên, Bộ Công Thương sẽ tập trung chỉ đạo ngành điện thực hiện nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sinh hoạt của nhân dân, phấn đấu không để thiếu điện trong bất cứ tình huống nào.
Để đảm bảo đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngoài nỗ lực của Bộ Công Thương và EVN thì rất cần sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự phối hợp của các bộ, ngành Trung ương và địa phương.
Đặc biệt, Chính phủ sớm phê duyệt Quy hoạch phát triển điện quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2045 (Quy hoạch điện VIII) là giải pháp quan trọng góp phần giảm nguy cơ thiếu điện trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước cũng như hậu COVID-19.
Báo cáo Quốc hội tiến độ thực hiện cao tốc Bắc - Nam phía Đông Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể vừa ký báo cáo gửi Quốc hội về tình hình thực hiện đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020. Tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông đoạn La...