Phát hiện từng có loài thú có túi giống tê giác, đi giống người
Các nhà khoa học đã phát hiện ra một loài thú có túi cổ đại nặng 1/4 tấn từng rong ruổi trên khắp nước Úc.
Các hóa thạch mới giúp làm sáng tỏ những bí ẩn xung quanh những loài thú có túi khổng lồ đã tuyệt chủng khác.
Loài mới được gọi là Ambulator keanei
Loài mới được gọi là Ambulator keanei, có hình dáng cơ thể tương tự gấu hoặc tê giác. Nó có thể nặng khoảng 250 kg và cao khoảng 1 mét tính đến vai. Ambulator keanei thuộc họ Diprotodontids, bao gồm các loài thú có túi khổng lồ có quan hệ họ hàng xa với loài gấu túi. Loài lớn nhất trong nhóm này, Diprotodon optatum, đã phát triển đến kích thước của một chiếc ô tô lớn và nặng tới 3 tấn.
Diprotodontids là họ thú có túi lớn nhất từng tồn tại và là một phần không thể thiếu của hệ sinh thái trên cạn của Úc cho đến khi những thành viên cuối cùng của họ này bị tuyệt chủng khoảng 40 000 năm trước.
Các nhà khoa học đã khai quật được một phần bộ xương của Ambulator keanei vào năm 2017 từ một vách đá bị xói mòn tại Khu bảo tồn động vật hoang dã Kalamurina ở Nam Úc. Xương hóa thạch có niên đại khoảng 3,5 triệu năm trước trong thế Pliocene (5,3 triệu đến 2,6 triệu năm trước).
Trong một nghiên cứu mới, được công bố vào ngày 31.5 trên tạp chí Royal Society Open Science, các nhà nghiên cứu đã sử dụng máy tính quét 3D xương để tạo ra một mô hình Ambulator keanei xem nó có thể trông như thế nào.
Mô hình gợi ý rằng loài thú có túi khổng lồ này có thể có động tác đi khác với những động vật có kích thước tương tự hiện giờ. Điều này có thể đã giúp Ambulator keanei tồn tại trong một hệ sinh thái có tốc độ thay đổi nhanh chóng.
Tác giả chính của nghiên cứu Jacob van Zoelen, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Flinders ở Úc, cho biết: “Hầu hết các loài động vật ăn cỏ lớn ngày nay như voi và tê giác đều đã di chuyển kiểu Digitigrade (đi kiễng chân), nghĩa là chúng đi bằng đầu ngón chân với gót chân không chạm đất. Còn Diprotodontids là loài di chuyển theo kiểu mà chúng ta gọi là plantigrade, nghĩa là xương gót chân của chúng tiếp xúc với mặt đất khi di chuyển, tương tự như cách mà loài người thực hiện”.
Kết quả là, Ambulator keanei đã tiết kiệm được năng lượng bằng cách phân bổ đều trọng lượng của nó khi di chuyển, nhưng dáng đi này của nó sẽ khiến việc chạy nhanh trở nên khó khăn hơn.
Video đang HOT
Nhưng bù lại, theo các nhà nghiên cứu đã viết trong một bài báo khoa học cho The Conversation, những sải chân kiểu này có thể đã cho phép Ambulator keanei đi được quãng đường rất dài. Đó quả là một lợi ích to lớn bởi vì trong thế Pliocene, khi đồng cỏ và môi trường sống ở Úc trở nên khô hạn hơn. Họ Diprotodontids có thể phải di chuyển quãng đường xa hơn nhiều để có đủ nước và thức ăn ưa thích của chúng là lá non chứ không phải cỏ.
Điều này cũng có thể đã buộc các loài trong họ Diprotodontids phải tiến hóa để lớn hơn để di chuyển xa hơn. Điều này cuối cùng sẽ dẫn đến sự ra đời của loài Ambulator keanei rồi Diprotodon optatum khổng lồ nặng 3 tấn.
Van Zoelen cho biết, bí quyết giúp Ambulator keanei đi lại hiệu quả là một khớp ở cổ tay giúp nó có “gót ở bàn tay” hay gọi là gót thứ cấp. Khớp này khiến “các ngón trên bàn tay của Ambulator keanei về cơ bản trở nên vô dụng và khi không tiếp xúc với mặt đất khi di chuyển”.
Phát hiện này có thể giúp giải thích một bí ẩn lâu đời về thú có túi. Các nhà khoa học đã tìm thấy dấu chân hóa thạch của Diprotodon optatum, loài thú có túi lớn nhất từ trước đến nay, nhưng hóa thạch không có bất kỳ dấu chân nào. Nhờ phát hiện mới, người ta hiểu nguyên nhân của điều này là do những ngón chân của Diprotodon optatum không bao giờ chạm đất.
Khám phá về Ambulator keanei cũng có thể giúp giải thích tại sao loài Diprotodon opatum lại phát triển lớn như vậy. Nghiên cứu mới gợi ý rằng sự phân bổ trọng lượng đồng đều của loài thú có túi mới phát hiện cũng có thể đã xảy ra ở Diprotodon opatum và có thể là yếu tố chính khiến loài này phát triển kích thước lớn như vậy.
Phát hiện mới rất quan trọng vì cho đến nay, hầu hết kiến thức về các loài trong họ Diprotodontids đến từ hóa thạch hàm và răng. Chính hạn chế đó đã để lại những lỗ hổng kiến thức lớn về họ động vật này. Mặt khác, các loài trong họ Diprotodontids có họ hàng rất xa với các loài thú có túi khác, điều đó khiến giới nghiên cứu rất khó để suy luận bất cứ điều gì về chúng từ các loài thú có túi ngày nay.
Van Zoelen nói: “Ngày nay không có gì giống như chúng. Tuy nhiên, những phát hiện như thế này sẽ giúp nâng cao hiểu biết của chúng ta về những loài động vật có túi khổng lồ đã tuyệt chủng”.
Diprotodontids có hình dạng xương chi có thể được nhóm thành ba loài chính. Có những loài thích nghi với việc leo cây, chẳng hạn như Nimbadon lavarackorum và Ngapakaldia tedfordi; và những loài thích nghi với khả năng vận động hiệu quả hơn và di chuyển những khoảng cách xa, chẳng hạn như Diprotodon optatum và Ambulator keanei – được gọi là các loài giỏi đi bộ.
Ngoài ra còn có các loài Diprotodontids sống trên cạn và có khả năng nắm tay như Kolopsis torus và Plaisiodon centralis. Tuy nhiên, không giống như loài đi bộ, chi trước của chúng không chuyên biệt để đi bộ và có thể thực hiện nhiều chức năng.
Các loài đi bộ không xuất hiện trong hồ sơ hóa thạch cho đến 3,5 triệu năm trước. Trên thực tế, Ambulator keanei là loài đầu tiên trong họ Diprotodontids mà chúng ta biết có khả năng thích ứng với việc đi bộ chuyên biệt này.
Vì sao quái thú 'tê giác có cặp sừng nai' lại khổng lồ thần tốc?
Động vật có vú cổ đại được gọi là 'quái thú sấm sét' (thunder beast) đã lớn hơn gấp 1.000 lần chỉ 16 triệu năm sau khi tiểu hành tinh va chạm Trái đất khiến khủng long bị tuyệt chủng.
Sau vụ va chạm đó, lại một vụ nổ thứ hai đã làm rung chuyển vương quốc động vật. Lần này, đến lượt động vật có vú cỡ lớn là nạn nhân. Nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Science cho thấy một loài có tổ tiên chung với ngựa hiện đại nhưng bề ngoài giống tê giác có cặp sừng nai từng sống dưới bóng của khủng long đã trở thành "quái thú sấm sét" khổng lồ đột ngột như một tia sét tiến hóa.
Các phát hiện cho thấy rằng kích thước cơ thể lớn có thể đã giúp cho một số loài động vật có vú một lợi thế tiến hóa khác biệt sau khi loài khủng long tuyệt chủng.
Trong kỷ Phấn trắng (145 triệu đến 66 triệu năm trước), động vật có vú chủ yếu chạy dưới chân những con khủng long lớn hơn nhiều. Nhiều con nặng không quá 10 kg. Nhưng khi loài khủng long tuyệt chủng, một số loài động vật có vú đã nắm bắt cơ hội quan trọng để làm cho chúng có kích thước trở nên to lớn. Nhưng rất ít loài làm được điều đó một cách ấn tượng như brontotheres, một dòng động vật có vú đã tuyệt chủng có trọng lượng ban đầu là 18 kg và có họ hàng gần nhất với ngựa hiện đại.
Tác giả đầu tiên của nghiên cứu, Oscar Sanisidro thuộc Nhóm Nghiên cứu Tiến hóa và Thay đổi sinh thái toàn cầu tại Đại học Alcalá ở Tây Ban Nha cho biết: "Mặc dù các nhóm động vật có vú khác đã đạt được kích thước lớn trước đó, nhưng brontotheres là loài động vật đầu tiên liên tục tiến hóa để đạt được kích thước lớn. Không chỉ vậy, chúng đạt trọng lượng tối đa đến 4,5 tấn chỉ trong 16 triệu năm, một khoảng thời gian khá ngắn từ góc độ địa chất".
Hóa thạch của brontotheres đã được tìm thấy ở khu vực ngày nay là Bắc Mỹ và chúng được đặt cho biệt danh "Thunder Beast". Nhiều người tin rằng hóa thạch của "Ngựa Sấm" khổng lồ đã trôi dạt trên đồng bằng trong cơn giông bão.
Các nhà cổ sinh vật học trước đây đã biết rằng brontotheres tăng kích thước cực kỳ nhanh chóng. Vấn đề là, cho đến nay, họ không có lời giải thích chắc chắn về cách thức.
Có ba con đường tiến hóa khả thi mà chúng có thể đã trải qua. Thứ nhất, được gọi là quy tắc của Cope, gợi ý rằng toàn bộ loài tăng dần kích thước theo thời gian, giống như đi thang cuốn từ nhỏ đến lớn. Giả thuyết thứ hai cho rằng thay vì tăng đều đặn theo thời gian, có những giai đoạn tăng nhanh rồi chậm theo chu kỳ, chẳng hạn như chạy lên cầu thang nhưng lại dừng lại ở chiếu nghỉ cầu thang để lấy lại hơi. Cách giải thích thứ ba là không có sự gia tăng nhất quán giữa tất cả các loài: một số sẽ tăng lớn, và một số sẽ thu nhỏ, nhưng nói chung, loài lớn phát triển nhiều hơn.
Sanisidro và các đồng nghiệp đã phân tích một cây phả hệ chứa 276 cá thể brontothere, để chọn ra con đường tiến hóa có khả năng xảy ra nhất.
Họ phát hiện ra rằng lời giải thích thứ ba phù hợp nhất với dữ liệu: Thay vì từ từ lớn hơn theo thời gian hoặc lớn vọt lên rồi chậm lại theo chu kỳ, các cá thể brontothere sẽ tăng hoặc giảm kích thước khi chúng mở rộng sang các nhánh sinh thái mới.
Khi một loài mới xuất hiện trong hồ sơ hóa thạch, nó không thay đổi nhiều. Tuy nhiên, những phân loài lớn hơn vẫn sống sót trong khi những phân loài nhỏ hơn nhanh chóng bị tuyệt chủng vì không thích nghi, đẩy kích thước trung bình của loài tăng lên theo thời gian.
Sanisidro cho rằng lời giải thích hợp lý nhất cho con đường tiến hóa này là sự cạnh tranh. Bởi vì động vật có vú vào thời điểm sau khi khủng long bị tuyệt chủng có xu hướng nhỏ, nên có sự cạnh tranh rất lớn giữa các động vật ăn cỏ nhỏ. Những con lớn hơn có ít đối thủ cạnh tranh hơn về nguồn thức ăn mà chúng tìm kiếm và do đó có triển vọng sinh tồn tốt hơn.
Bruce Lieberman, một nhà cổ sinh vật học của Đại học Kansas, người không thuộc nhóm nghiên cứu, cũng cho rằng ông rất ấn tượng với sự công phu của nghiên cứu.
Sanisidro lưu ý rằng nghiên cứu này chỉ giải thích làm thế nào các động vật có vú giống như tê giác có thể trở thành khổng lồ, nhưng ông hy vọng sẽ kiểm tra tính hợp lý của mô hình đang nghiên cứu đối với các loài động vật có vú lớn khác trong tương lai.
Sanisidro nói: "Ngoài ra, chúng tôi muốn khám phá xem những thay đổi về kích thước cơ thể giữa các phân loài có thể ảnh hưởng như thế nào đến các đặc điểm khác của các con vật này, như tỷ lệ hộp sọ, sự hiện diện của các phần phụ có xương, chẳng hạn như sừng".
Brontotheriidae là một họ động vật có vú đã tuyệt chủng thuộc bộ Perissodactyla, bộ bao gồm ngựa, tê giác và heo vòi. Nhìn bề ngoài, chúng trông khá giống tê giác , mặc dù chúng thực sự có họ hàng gần với ngựa hơn; Equidae và Brontotheriidae tạo nên phân bộ Hippomorpha. Chúng sống vào khoảng 56-34 triệu năm trước, cho đến khi gần đến thế Eocen.
Lịch sử tiến hóa của loài này được nhiều người biết đến do hồ sơ hóa thạch hoàn hảo ở Bắc Mỹ. Các loài brontotheres xuất hiện sớm nhất, chẳng hạn như Eititanops, khá nhỏ, cao không quá một mét và không có sừng.
Brontotheres tiến hóa để có cơ thể đồ sộ, mặc dù một số loài nhỏ như Nanotitanops vẫn tồn tại qua Eocen. Một số chi, chẳng hạn như Dolichorhinus, đã tiến hóa hộp sọ rất dài. Các brontotheres sau này rất lớn, cao tới 2,5 mét với các phần phụ của hộp sọ giống như sừng. Ví dụ, Megacerops brontothere ở Bắc Mỹ đã tiến hóa cặp sừng lớn phía trên mũi của chúng.
Những chiếc sừng dị hình giới tính cho thấy rằng brontotheres có tính xã hội cao và những con đực có thể dùng sừng húc đầu vào nhau để tranh giành con cái. Không giống như tê giác, sừng của brontotheres gồm xương trán kết hợp với xương mũi và nằm cạnh nhau chứ không phải từ trước ra sau.
Brontotheres có lẽ đã tuyệt chủng vì chúng không thể thích nghi với điều kiện khô hạn hơn và thảm thực vật bị sa van hóa lan rộng trong Thế Oligocen.
Bài học huấn luyện con khéo léo của mèo Caracal Một trong những loài mèo quý hiếm nhất trong Công viên Quốc gia Kruger, Nam Phi cùng nhau chỉ bảo và săn mồi trước ống kính của nhiếp ảnh gia. Linh miêu tai đen (Caracal) là giống mèo hoang cỡ trung có nguồn gốc từ châu Phi, Trung Đông, Trung Á và Ấn Độ. Mèo Caracal hay còn được gọi là Linh miêu...