Phần mềm gián điệp ngày càng biến tướng và nguy hiểm
Không chỉ lây nhiễm qua Internet hay thông qua cài đặt phần mềm, một số nhà sản xuất còn giấu sẵn spyware trên các thiết bị ngay khi xuất xưởng.
Khi người dùng truy cập các trang web uy tín nhưng liên tục thấy những cửa sổ mới mở ra (pop-up), địa chỉ trang chủ trên trình duyệt của bạn bị thay đổi. Và ngay cả khi thiết lập lại, khôi phục cài đặt mặc định, tình trạng trên vẫn tái diễn. Rất có thể máy tính của bạn đã bị nhiễm phần mềm độc hại và khống chế một số quyền điều khiển.
Spyware có thể theo dõi mọi hoạt động và khống chế quyền điều khiển máy tính.
Phần mềm này được bí mật cài đặt lên máy tính người dùng, thường chia làm hai loại: Các phần mềm quảng cáo bất hợp pháp (adware) và phần mềm gián điệp (spyware). Xuất hiện sau virus cả chục năm, vào những năm 1995, adware và spyware ban đầu chỉ có mục đích phát tán quảng cáo và thu thập các thông tin để các công ty thúc đẩy, nâng cao hiệu quả quảng cáo trên Internet.
Đến những năm 2002, spyware “biến tướng” theo hướng tiêu cực, trở thành các phần mềm độc hại và bị phát tán rộng trên Internet. Spyware lúc này được biết đến là những phần mềm gián điệp, được thiết kế độc lập với mục đích theo dõi thông tin người dùng. Giống như một loại “bệnh dịch”, spyware nhanh chóng lây lan cho người dùng Internet ở khắp thế giới.
Theo FaceTime Communications, ước tính hơn 80% trong tổng số máy tính cá nhân trên toàn thế giới bị nhiễm phần mềm gián điệp. Spyware trở thành mối đe dọa với nhiều doanh nghiệp và xâm phạm nghiêm trọng quyền riêng tư của người dùng.
Ban đầu, spyware “chạy” vào máy tính khi bạn cài đặt một số phần mềm miễn phí, các ứng dụng bẻ khóa (crack, keygen…) một cách thầm lặng. Đó là lý do mà các chuyên gia bảo mật vẫn luôn cảnh báo: không có thứ gì hoàn toàn miễn phí, ngay cả trên Internet.
Một số máy tính Lenovo cài sẵn phần mềm hội tụ đầy đủ chức năng của spyware.
Các phần mềm gián điệp còn “đánh” vào sự hiếu kỳ của người dùng khi liên tục “nhảy” ra các thông báo hấp dẫn, yêu cầu thực hiện một số bước để xem tiếp. Nếu bạn lơ là, mất cảnh giác mà làm theo thì rất có thể máy tính đã bị nhiễm phần mềm gián điệp. Những trang web có nội dung không lành mạnh, web sex… được coi là “ổ dịch” của virus và spyware khi 80% trong số đó ẩn chưa mối nguy hiểm.
Video đang HOT
Ngay cả khi cảnh giác, dù không cài đặt hay làm theo thì chỉ cần truy cập là người dùng đã có nguy cơ nhiễm spyware. Một số phần mềm gián điệp khai thác lỗ hổng trên các trình duyệt và chờ trực bạn ghé thăm là sẵn sàng “chui vào” rồi “ẩn náu” trong máy tính.
Không chỉ xuất hiện trên máy tính, phổ biến với các thiết bị dùng hệ điều hành Windows, spyware còn có những phiên bản được thiết kế chạy trên điện thoại thông minh, máy tính bảng. Nguy hiểm hơn, một số nhà sản xuất còn cài sẵn các phần mềm theo dõi trên sản phẩm điện tử trước khi xuất xưởng.
Trước đây, spyware đi kèm các phần mềm miễn phí, những ứng dụng bẻ khóa và được coi là “cái giá phải trả” vì người dùng không mất tiền. Song việc cài sẵn phần mềm độc hại trên các thiết bị còn chưa bóc hộp, từ những nhà sản xuất tên tuổi, đặt ra thách thức mới về quyền riêng tư của người dùng.
Spyware xuất hiện trên cả điện thoại thông minh, máy tính bảng.
Với smartphone, tablet chứa phần mềm gián điệp, nó có khả năng nghe lén các cuộc đàm thoại, sao chép danh bạ và thư viện ảnh, tải ứng dụng rác vào máy, đọc và gửi SMS, vô hiệu hóa phần mềm diệt virus, tra cứu lịch sử truy cập web… Do được nhà sản xuất cài sẵn nên các chuyên gia bảo mật đánh giá: hầu như người dùng thông thường không nhận ra và spyware được lưu trong firmware nên rất khó để gỡ bỏ…
Xuất phát từ mục đích thu thập thông tin giúp việc quảng cáo trên Internet hiệu quả hơn, spyware xuất hiện và liên tục biến tướng, trở thành công cụ theo dõi, đánh cắp thông tin người dùng. Theo thống kê của Websense, khoảng 20% tổ chức từng sử dụng các công cụ nhằm ghi lại các thao tác trên bàn phím (keylogger, một dạng của spyware).
Mặc dù người dùng, đặc biệt trong doanh nghiệp đã được nâng cao ý thức bảo mật, song đây vẫn là mối nguy hiểm lớn. Thống kê cho thấy, hơn 90% doanh nghiệp phải đối đầu với phần mềm gián điệp và nguy cơ rò rỉ thông tin.
Theo Washington Post, giới chức Mỹ chỉ trích các tổ chức từ Trung Quốc “tích cực” trong việc xâm nhập vào máy tính nước khác để đánh cắp bí mật thương mại, phục vụ cho kinh tế nước mình. Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) tiết lộ năm 2014, các vụ gián điệp kinh tế tại nước này đã tăng 53% trong đó Trung Quốc tham gia tới một nửa.
Bảo Anh
Theo VNE
Phần mềm gián điệp được cài lên máy tính thế nào
Phần mềm gián điệp có thể được cài vào máy tính thông qua cửa sổ quảng cáo, các tiện ích mở rộng hay những ứng dụng có sẵn của nhà sản xuất...
Spyware hay phần mềm gián điệp, là thuật ngữ thường dùng để chỉ các ứng dụng tự ý thu thập thông tin người dùng, thay đổi cấu hình máy tính, thậm chí cướp quyền điều khiển thiết bị... Nói cách khác, phần mềm gián điệp cài đặt và thực hiện các hành vi một cách lén lút, bí mật, không được sự cho phép của chủ sở hữu.
Theo FaceTime Communications, ước tính hơn 80% trong tổng số máy tính cá nhân trên toàn thế giới đang nhiễm phần mềm gián điệp. Một số người nhầm lẫn giữa spyware và virus máy tính, nhưng hai khái niệm này khác nhau.
Virus máy tính là một đoạn mã được thiết kế để tự "nhân bản", lan truyền từ thiết bị này sang thiết bị khác thông qua một kết nối nào đó. Virus máy tính có xu hướng phá hoại các tập tin, thậm chí "ăn" và phá hỏng cả hệ điều hành.
Trong khi đó, phần mềm gián điệp nhìn chung không làm hỏng thiết bị của người dùng. Nó thường chạy ngầm và tránh để người dùng phát hiện, đồng thời nó thu thập thông tin một cách bí mật, từ lịch sử duyệt web, tên tài khoản, mật khẩu, các giao dịch ngân hàng... hoặc hiển thị quảng cáo, tự động đổi hướng khi truy cập Internet...
Hiện nay hầu hết các phần mềm gián điệp xuất hiện trên hệ điều hành Windows. Một trong những spyware "khét tiếng" là Trymedia, Nuvens, Estalive, Hotbar và New.Net.Domain.Plugin...
Phần mềm gián điệp được cài vào máy tính thế nào
Có nhiều nguyên nhân khiến thiết bị nhiễm spyware. Khi sử dụng máy tính, người dùng thường vô tình cài đặt phần mềm gián điệp thông qua cửa sổ pop-up, cài đặt thêm một số tính năng trong gói phần mềm chung...
Cách đầu tiên để phần mềm gián điệp xâm nhập vào thiết bị là qua việc download phần mềm. Khi tải các ứng dụng từ Internet hay truy cập web, một cửa sổ pop-up hiện lên và spyware sẽ gợi ý được cài đặt. Cảnh báo duy nhất người dùng nhận được là tên của phần mềm, thậm chí nếu máy thiết lập bảo mật ở mức thấp thì không có cảnh báo nào.
Ngoài ra, khi cài đặt phần mềm, người dùng được gợi ý cài thêm các phần mềm khác, lại chính là spyware. Nếu không đọc kỹ thông tin, bạn sẽ chấp nhận cho các phần mềm này thu thập thông tin cá nhân hay tự ý quảng cáo... Con đường khác để spyware lây lan vào máy tính là thông qua việc cài đặt tiện ích mở rộng (add-ons) cho trình duyệt.
Spyware cũng có thể được cài đặt sẵn trên máy tính từ khi xuất xưởng. Một số nhà sản xuất có sẵn các tiện ích cho khách hàng, trong số này có cả ứng dụng thu thập thông tin mà các hãng thường nói là "để nâng cao trải nghiệm người dùng". Phần mềm này hội tụ đầy đủ các yếu tố của spyware và do cài sẵn nên đôi khi người dùng không biết hoặc quên mất sự tồn tại của nó.
"Thủ đoạn tàn bạo" nhất là phần mềm gián điệp được thiết kế giả mạo như là một phần mềm diệt virus, diệt spyware. Bạn từng thấy một thông báo hiện lên nói rằng máy tính chạy chậm, có virus...và cần khắc phục. Ngay khi bấm Đồng ý, người dùng đã cho phép spyware được cài đặt trên thiết bị của mình.
Phần mềm gián điệp gây hại ra sao
Ở mức thấp nhất, hầu hết các phần mềm gián điệp được thiết kế để chạy ngầm ngay khi bạn bật máy tính. Do đó nó gây tiêu tốn điện năng, bộ nhớ RAM và ảnh hưởng đến hiệu suất xử lý của thiết bị.
Phần mềm gián điệp có thể phát sinh quảng cáo và thường "nhảy ra" dưới dạng cửa sổ pop-up. Nó gây khó chịu khi liên tục xuất hiện, đôi khi ở ngay trang chủ và còn chứa các nội dung phản cảm. Ngoài ra, phần mềm gián điệp có thể thay đổi hướng khi bạn truy cập Internet, thao túng kết quả khi tìm kiếm...
Nguy hiểm hơn, nó có khả năng điều khiển toàn bộ máy tính, ghi lại nội dung bạn gõ (keylogger), đọc các tập tin trên ổ cứng, cài thêm spyware mới, đánh cắp tài khoản ngân hàng... sau đó gửi về máy chủ đích và có thể dùng cho các mục đích xấu. Nhìn chung, khi máy nhiễm spyware thì sự riêng tư của người dùng bị mất.
Ông Nguyễn Minh Đức, chuyên gia bảo mật của FPT, cho biết spyware là một trong những loại mã độc khó phát hiện ra nhất (kể cả với người biết về kỹ thuật). Do đó, người dùng nên sử dụng các phần mềm diệt virus để chặn các kết nối không mong muốn.
Bảo Anh
Theo VNE
Nhiều nước đề phòng máy tính Trung Quốc Các hãng sản xuất máy tính của Trung Quốc luôn bị nhà chức trách nhiều quốc gia đề phòng và tẩy chay vì chứa phần mềm gián điệp. Một chiếc máy vi tính của Lenovo. Ảnh: LaptopMag. Lenovo là công ty Trung Quốc có trụ sở ở Bắc Kinh và North Carolina (Mỹ). Năm 2005, Lenovo mua lại mảng kinh doanh máy vi...