Phân biệt 9 tình trạng bệnh giống tự kỷ
Tuy các triệu chứng có vẻ giống nhau, nhưng những tình trạng bệnh này thực sự không phải là tự kỷ. Dưới đây là cách phân biệt.
Tự kỷ là gì?
Tình trạng này thường xuất hiện sớm ở ở trẻ nhỏ, thậm chí là trẻ dưới một tuổi, với đặc điểm là trẻ gặp khó khăn với việc nói, giao tiếp phi ngôn ngữ và hành vi lặp đi lặp lại, theo Hội Tâm thần Mỹ (APA). Các triệu chứng của rối loạn phổ tự kỷ có thể thuộc hai loại:
Các vấn đề về giao tiếp và tương tác xã hội: Theo APA, những vấn đề này có thể bao gồm khó khăn trong giao tiếp qua lại và không thể chia sẻ mối quan tâm hoặc cảm xúc.
Khó khăn liên quan đến con người, sự vật và sự kiện: Có thể bao gồm nhầm lẫn các tín hiệu xã hội, gặp khó khăn trong việc kết bạn và không thể đọc được biểu cảm trên khuôn mặt hoặc duy trì giao tiếp bằng mắt.
Số người bệnh tự kỷ có thể cao hơn con số mà các chuyên gia thừa nhận: Mặc dù số liệu gần đây nhất từ CDC chỉ ra rằng cứ 59 trẻ thì có 1 trẻ bị tự kỷ, một nghiên cứu năm 2018 trên tạp chí Pediatrics cho thấy 1/40 số trẻ em ở Mỹ có tình trạng này.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD)
Các triệu chứng của OCD, chẳng hạn như không thể cưỡng lại việc rửa tay, lau chùi hoặc sờ vào các đồ vật như tay nắm cửa, có thể giống với những động tác lặp đi lặp lại trong bệnh tự kỷ. Những người mắc OCD khó hướng sự tập trung ra khỏi nỗi ám ảnh của họ, một hiện tượng cũng gặp trong bệnh tự kỷ.
Sự khác biệt chính là những người mắc OCD thường cảm thấy khó chịu, bận tâm hoặc dằn vặt bởi sự cưỡng bạch của mình, trong khi những suy nghĩ lặp đi lặp lại hoặc gây phiền hà không phải lúc nào cũng khiến những người bệnh tự kỷ bận tâm. Không giống như tự kỷ, OCD có thể tấn công ở mọi lứa tuổi và xảy ra ở phụ nữ nhiều hơn nam giới, và nó có thể được quản lý bằng liệu pháp nói chuyện và thuốc.
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội
Video đang HOT
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội biểu hiện mô hình coi thường hoặc xâm phạm quyền của người khác, có thể khiến một người hành động bừa bãi và coi thường các quy tắc xã hội.
Điều này nghe có vẻ giống với tự kỷ, nhưng điểm khác biệt chính là những người mắc bệnh rối loạn nhân cách chống đối xã hội hành động theo kiểu đeo đuổi mục tiêu, sử dụng bất kỳ phương tiện nào để thực hiện mục tiêu phục vụ cho bản thân họ.
Nói cách khác, hành vi của họ là để tiếp tục một lịch trình; với chứng tự kỷ, không có lịch trình hay động cơ thầm kín nào. Một điểm khác biệt nữa là tuổi thơ bị lạm dụng, bỏ bê và bạo hành có thể đóng một vai trò trong việc hình thành rối loạn nhân cách chống đối xã hội và điều đó chắc chắn không đúng với bệnh tự kỷ.
Tâm thần phân liệt
Bệnh tâm thần nghiêm trọng này được đặc trưng bởi tư duy rời rạc hoặc phi logic, hành vi và lời nói kỳ quái, hoang tưởng hoặc ảo giác, như nghe thấy tiếng nói. Nó giống với tự kỷ ở chỗ cả hai tình trạng đều bao gồm những vấn đề về nhận thức và xử lý cảm giác, cả hai dường như đều có tính gia đình và cả hai đều liên quan đến sự phát triển não không điển hình.
Và cả hai tình trạng đều có thể dẫn đến sự cách ly với xã hội và thiếu nhạy cảm về mặt cảm xúc. Tuy nhiên, tâm thần phân liệt hay được chẩn đoán hơn ở tuổi trưởng thành; Ngoài ra, tự kỷ không bao gồm hoang tưởng và ảo giác.
Rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực (lưỡng cực I và lưỡng cực II) là những rối loạn ở não gây ra những thay đổi về tâm trạng, năng lượng và khả năng hoạt động của một người, theo APA. Người bị rối loạn lưỡng cực phải chịu các trạng thái cảm xúc cực đoan và dữ dội được gọi là các cơn cảm xúc; có thể là hưng cảm, thờ ơ hoặc trầm cảm.
Trong cơn trầm cảm, người mắc chứng rối loạn lưỡng cực sẽ cách ly khỏi xã hội, dễ bị phân tâm và hành động bột phát – tất cả đều là những đặc điểm có thể gặp trong bệnh tự kỷ. Sự khác biệt là ở chỗ các cơn này lúc có lúc hết ở những người bị rối loạn lưỡng cực. Ngoài ra, những người bị rối loạn lưỡng cực có thể được điều trị thông qua kết hợp giữa liệu pháp trò chuyện và thuốc.
Lo âu
Rối loạn lo âu toàn thể (GAD) bao gồm lo lắng dai dẳng và quá mức cản trở các hoạt động hàng ngày. Theo APA, tình trạng lo lắng và căng thẳng liên tục này có thể đi kèm với các triệu chứng thực thể, như bồn chồn, cảm giác khó chịu hoặc dễ mệt mỏi, khó tập trung, căng cơ và các vấn đề về giấc ngủ. Điểm khác nữa với tự kỷ là GAD cực kỳ phổ biến, 18% người Mỹ bị rối loạn lo âu, theo Hội lo âu và trầm cảm Mỹ. Và, không giống như tự kỷ, GAD dễ tấn công phụ nữ hơn nam giới.
Các rối loạn học tập
Về cơ bản, đây là bất kỳ khuyết tật nào cản trở việc đọc, viết và làm toán, theo APA. Trong khi trẻ tự kỷ cũng sẽ gặp nhiều khó khăn với việc học, nhưng trẻ có khả năng tập trung cao độ và hiểu sâu sắc về chủ đề mà trẻ hứng thú. Đối với trẻ tự kỷ, cuộc chiến đấu chủ yếu bao gồm hiểu biết xã hội, giao tiếp và các thói quen hoặc hành vi lặp đi lặp lại, bao gồm cả những sở thích hẹp và ám ảnh. Những triệu chứng này là không điển hình ở trẻ có vấn đề về học tập và chú ý.
Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD)
Có thể có sự chồng lấn giữa các triệu chứng tự kỷ và ADHD – khó tập trung, tăng động và cưỡng bách. Nhưng trong khi trẻ ADHD sẽ phản kháng lại trật tự và sự lặp lại, thì những điều như vậy lại có thể dễ chịu đối với một đứa trẻ tự kỷ.
Trẻ tự kỷ có thể rất miễn cưỡng khi phải nói chuyện hoặc giao tiếp với người khác trừ khi họ nói về chủ đề mà trẻ hứng thú; với ADHD, trẻ sẽ nói chuyện không cưỡng lại được, thường xuyên và ngắt lời người khác. Theo ước tính của APA, có khoảng 8,4% trẻ em và 2,5% người lớn mắc ADHD và giống như tự kỷ, bệnh hay gặp ở nam giới.
Rối loạn stress hậu chấn thương (PTSD)
PTSD có thể bao gồm những hành vi tương tự một số triệu chứng của tự kỷ – ác mộng, bùng nổ cảm xúc, cảm giác tách biệt hoặc lạnh nhạt. Nhưng như APA chỉ ra, PTSD thường là kết quả của một sự kiện gây sang chấn, cộng với việc nó hay tấn công phụ nữ gấp đôi so với nam giới. (Bệnh tự kỷ phổ biến ở trẻ em nam hơn trẻ em nữ.) Ngoài ra, PTSD có thể được điều trị bằng liệu pháp tâm lý và liệu pháp nhận thức-hành vi (CBT) và thuốc.
Hội chứng Tourette
Theo Hội Bệnh Tourette Mỹ, rối loạn này có thể bao gồm máy giật cơ như nháy mắt, nhún vai liên tục, lẩm bẩm hoặc nói một số cụm từ không muốn. Sự thiếu kiểm soát về chuyển động và phát âm cũng xuất hiện trong bệnh tự kỷ, nhưng sự khác biệt lớn nhất giữa tự kỷ và rối loạn tic là rối loạn tic có thể giảm hoặc hết khi trẻ lớn lên, theo Hội Tâm lý Trẻ em và vị thành niên Mỹ.
Cẩm Tú
Theo RD
Thêm bằng chứng khẳng định vắcxin không gây tự kỷ
Một nghiên cứu chỉ ra trẻ em tiêm vắcxin phối hợp sởi, quai bị và rubella (MMR) không hề bị tăng nguy cơ tự kỷ.
Theo Live Science, kết quả nghiên cứu công bố ngày 4/3 trên Annals of Internal Medicine là một trong những công trình lớn nhất phủ nhận mối liên hệ giữa tự kỷ và vắcxin phối hợp sởi, quai bị và rubella (MMR).
Để đưa ra kết luận, các nhà khoa học Đan Mạch xem xét dữ liệu của hơn 657.000 người sinh từ năm 1999 đến 2010 bao gồm 6.500 trường hợp được chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ.
Kết quả cho thấy không hề tồn tại mối liên hệ nào giữa vắcxin và tự kỷ, thậm chí ở những nhóm sẵn có nguy cơ tự kỷ cao. Đặc biệt, tỷ lệ trẻ sinh từ năm 1999 đến 2000 tiêm vắcxin bị tự kỷ ít hơn trẻ không tiêm vắcxin.
"Người chăm sóc không nên từ chối tiêm phòng cho trẻ vì mối liên hệ vô lý này giữa vắcxin MMR và tự kỷ", ông Anders Hviid từ Khoa Nghiên cứu Dịch tễ Viện Statens Serum tham gia nghiên cứu trên nhấn mạnh.
Vắcxin MMR không gây tự kỷ. Ảnh: AP.
Ý tưởng vắcxin MMR liên quan đến tự kỷ bắt nguồn từ nghiên cứu nhỏ của Andrew Wakefield (Anh) trên tờ The Lancet năm 1998. Công trình này xem xét 12 trẻ chậm phát triển, trong đó tám em bị tự kỷ.
Do thiếu cơ sở khoa học, nghiên cứu của Wakefield nhanh chóng bị The Lancet rút lại, tác giả cũng mất giấy phép hành nghề bác sĩ. Đến nay, nhiều nhà khoa học vẫn chỉ trích đây là "trò lừa đảo y khoa gây thiệt hại nhất 100 năm qua".
Từ năm 1998, hàng loạt nghiên cứu đã khẳng định vắcxin MMR không liên quan đến tự kỷ, trong đó có công trình năm 2002 tiến hành trên 537.000 cá nhân sinh từ năm 1991 đến 1998 ở Đan Mạch.
Đến nay, khoa học vẫn chưa xác định được nguyên nhân sinh học dẫn đến tự kỷ. Tuy nhiên, một số nhóm có nguy cơ tự kỷ cao hơn là trẻ trai, trẻ sinh từ năm 2008 đến 2010, trẻ không được tiêm vắcxin và trẻ có anh chị bị tự kỷ. Vài yếu tố khác có thể dẫn đến nguy cơ tự kỷ như bố mẹ lớn tuổi, trẻ nhẹ cân, trẻ sinh non và mẹ hút thuốc trong thai kỳ.
Minh Nguyên
Theo VNE
Giai đoạn vàng để can thiệp cho trẻ tự kỷ là 24-36 tháng tuổi Ngày 2/4 được Liên hợp quốc chọn là "Ngày thế giới nhận thức về chứng tự kỷ" với mục đích khuyến cáo các quốc gia tăng cường quan tâm đến hội chứng này. Việc điều trị cho trẻ tự kỷ là hành trình dài, gian nan. Khoảng 200 nghìn người mắc rối loạn phổ tự kỷ Theo thống kê chưa đầy đủ, Việt...