Ớt nào mà ớt chẳng cay…
Ở miền Tây Nam bộ hầu như không nhà nào trong vườn nhà hay trước cửa thiếu cây ớt. Ớt có mặt hầu hết trong các món ăn của người dân miền sông nước.
Nói đến ẩm thực trong dân gian, hầu khắp trên mọi miền người ta không thể quên vị cay của ớt. Chất cay gắn liền với nóng và tất nhiên theo triết lý âm dương nó sẽ giúp cân bằng với chất hàn (lạnh).
Trái ớt
Theo nhiều tài liệu sinh vật học thì cây ớt có nguồn gốc từ châu Mỹ nhưng ngày nay nó được trồng khắp nơi trên thế giới và được sử dụng làm gia vị, rau, và thuốc. Có những bằng chứng khảo cổ ở các khu vực ở Tây Nam Ecuador cho thấy ớt đã được thuần hóa hơn 6000 năm về trước và là một trong những loại cây trồng đầu tiên ở châu Mỹ.
Christopher Columbus đã là một trong những người châu Âu đầu tiên thấy ớt ở vùng Caribe, và nhà thám hiểm này gọi chúng là “tiêu” vì chúng có vị cay tương tự chứ không phải dựa vào cách nhìn hình dáng bên ngoài.
Chậu ớt sừng trâu
Ớt có rất nhiều loại. Phổ biến nhất là các loại ớt sừng trâu trái lớn dáng cong, ớt hiểm trái nhỏ, dựa vào màu sắc của nó người ta lại chia ra ớt hiểm xanh, ớt hiểm trắng, … Ớt có trồng trên các liếp đất hay trồng ngay trong chậu vừa có trái ăn, vừa làm cảnh.
Đất để trồng ớt cần chọn nơi quang đãng và nhiều ánh sáng. Ớt trồng bằng hột. Sau khi gieo hột vài tháng là ớt đã có trái và cho trái quanh năm.
Cá kho
Ớt có thể ăn ngay từ lúc già cho tới khi chúng chín đỏ trên cây. Đơn giản nhất là món muối ớt. Vài trái ớt đâm nát với muối là có thể chấm các loại trái có vị chua từ bần, chùm giuộc đến me, ổi… đều góp phần cho món ăn thêm đậm đà, ngon miệng. Muối ớt dùng làm đồ chấm của rất nhiều món ăn từ canh chua, cá, rắn nướng đến rùa rang muối, gà xé phay,…
Ớt trồng làm cảnh
Video đang HOT
Ớt cũng được dùng dầm trong đĩa cá, mắm kho hay đĩa nước mắm trong để chấm rau luộc, các loại dưa bồn bồn, điên điển,… Chính vị cay nồng của nó làm cho thức ăn thêm ngon, người ăn đỡ ngán.
Cầu kỳ hơn và muốn để lâu hơn, người ta đem ớt phơi khô rồi xay thành bột. Bột ớt dùng để nêm thức ăn cũng ngon không kém ớt tươi.
Người miền Tây Nam bộ còn ngâm ớt làm chua. Ớt chín được bằm nhuyễn cùng với vài tép tỏi rồi cho vô keo. Chế nước giấm chua vào để một hai ngày ăn với cá kho, hay làm nước mắm đều tuyệt vời.
Vườn ớt
Và cũng chính từ những trái ớt trồng làm cảnh ít cay, người ta tận dụng để làm mứt. Những tái ớt to gần trái cà tô-mát được các mẹ, các chị khéo léo khoét bỏ hột rồi ngâm rửa qua nước muối, phèn chua. Độ cay ít của loại ớt này sau khi rửa kỹ gần như đã tan biến hết.
Sau khi ớt đã ráo nước, người ta bắc chảo lên thắng đường cho tới rồi trút ớt vô sên. Lửa nhỏ riu riu giúp đường thấm dần vào ớt. Chảo đường khô là mứt tới. Nhắc chảo xuống chờ nguội rồi xếp vô keo để ăn dần. Sáng sáng bên chung trà nóng ngâm nga vài miếng mứt ớt se se cay làm cho lòng người ấm lại. Thật thú vị biết nhường nào.
Mứt ớt
Còn theo y học cổ truyền, ớt có vị cay, nóng. Tác dụng khoan trung, tán hàn, kiện tỳ, tiêu thực, chỉ thống (giảm đau), kháng nham (chữa ung thư). Người bình dân thường dùng để chữa đau bụng do lạnh, tiêu hóa kém, đau khớp, dùng ngoài chữa rắn rết cắn. Rễ và lá ớt còn có mặt trong các bài thuốc dân gian để chữa bệnh sốt rét.
Mượn vị cay như một lẽ đương nhiên của ớt, dân gian lý giải một hiện tượng bình thường trong tâm lý phụ nữ:
Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng!
Theo Danviet
Nao lòng cùng... trái khóm miền Tây
Khóm có người còn gọi là dứa hoặc thơm. Đây là một loại quả nhiệt đới, có nguồn gốc từ Paraguay và miền nam Brasil.
Khóm có các lá gai mọc thành cụm hình hoa thị. Các lá dài và có hình dạng giống mũi mác và có mép lá với răng cưa, với nhiều gai nhọn, bén, mặt trên lá màu xanh đậm, mặt dưới có phấn trắng với những sợi chỉ nhỏ. Bông khóm mọc từ phần trung tâm của cụm lá hình bông thị, mỗi bông có các đài riêng của nó.
Chúng mọc thành cụm hình đầu rắn chắc trên thân cây ngắn và mập. Các đài bông trở thành mập và chứa nhiều nước và phát triển thành một dạng phức hợp được biết đến như là trái khóm (trái giả), mọc ở phía trên cụm lá.
Cây khóm không kén đất, những vùng phèn nhẹ ở Đồng bằng sông Cửu Long đều có thể trồng được và chúng phát triển tốt.
Vị chua ngọt của khóm đã làm cho nhiều người ưa chuộng. Đầu tiên có thể nói khóm được dùng ép lấy nước để giải khát. Người bị suy nhược cơ thể có thể dùng nước khóm pha với trứng gà, uống để tăng cường sinh lực.
Trái khóm (hay còn gọi là trái dứa, thơm)
Mắt khóm chứa nhiều axit khiến người ăn rát lưỡi, vì thế, khi gọt khóm người ta dùng dao bén khoét bỏ hết các mắt này. Mắt khóm được tận dụng ngâm gạo để bột. Gạo, nếp ngâm mắt khóm thương mau mềm, bột thơm, dẽo hơn.
Khóm tươi có thể xắt miếng vừa ăn để chấm với các loại cá, mắm kho hay kèm với thịt bò nướng ngói, cá lóc nướng trui. Đơn giản nữa thì chỉ cần chấm với muối ớt ăn chơi vừa ngọt thanh vừa giải khát giữa trưa hè.
Khóm thường có mặt trong các món xào. Đám giỗ nhà quê, người ta tận dụng ruột, gan gà, vịt để xào khóm trước cúng ông bà, sau giúp khách khứa thêm ngon miệng trong bàn tiệc. Ngày thường thì tép ạc, tép trấu lột vỏ, xào khóm cũng đỡ lòng người dân quê chân lấm tay bùn.
Do chất axit trong khóm, nên nó giúp cho việc nấu thịt trâu, bò mau mềm. Người ta tận dụng đều này, nên mỗi khi hầm xương, gân thường không thể thiếu mấy lát khóm. Khóm còn giúp làm cho nước ngọt hơn, đậm đà hơn.
Nhiều người tin rằng ăn khóm hàng ngày có thể giúp cơ thể giải nhiệt, chống tăng huyết áp và rất có lợi cho tim mạch.
Khóm bằm nhuyễn còn dùng để pha nước mắm, đặc biệt là để chấm món bò nướng ngói.
Cầu kỳ hơn là món bò nướng khóm. Dùng dao bổ dọc trái khóm, khoét lấy phần thịt, giữ lại phần vỏ. Phần thịt khóm thái thành những thanh dài mỏng. Thịt bò thái miếng mỏng, to bản rồi ướp với bột ớt, nước dừa, hành, tỏi xay, hạt nêm, tiêu, mè, dầu ăn, ... chờ thịt thấm đều. Trải miếng bò ra, cho sợi khóm vào cuộn lại. Trên bếp than hồng, bắc vỉ lên cho những cuốn thịt bò để lên nướng đến khi chín vàng.
Sau đó, xếp bò đã nướng vào trong vỏ trái khóm, rắc đậu phộng rang đâm nhuyễn lên trên, có thể vài nhánh rau húng, trái ớt tỉa bông cho đẹp mắt.
Nước chấm pha từ nước mắm ngon với khóm bằm nhuyễn, cùng với sả, ót, bột ngọt. Đến đây, chúng tôi xin nói thêm món ốc lác xào khóm. Ốc lác màu đen, vỏ cứng ẩn mình dưới đất ruộng trên đồng vào mùa khô hạn. Khi những cơn mưa mùa đổ xuống, nước ngập trắng đồng, cũng là lúc ốc bò lên đẻ trứng.
Ốc xào khóm
Khi ra đồng chỉ việc mang thùng, mang giỏ lượm ốc đem về. Ốc ăn rong, đất nên phải rọng trong khạp da bò một hai bữa mới đem ra chế biến món ăn, như vậy, ốc mới sạch và ngon. Trước khi chế biến, người ta rọng ốc lần nữa trong nước vo gạo pha thêm ớt hiểm đam nát. Làm vậy để ốc nhả hết nhớt. Sau đó, phải cạy ốc ra khỏi vỏ, chà sạch với phèn chua rồi rửa lại bằng nước lạnh và để ráo.
Khóm gọt sạch, tiện kỹ cắt dài dài vừa miếng, bỏ cùi. Bắc chảo lên bếp phi tỏi cho vàng, xào ốc trước, nêm nếm, lúc ốc thấm gia vị và vừa săn tới thì cho khóm vào, xào đến khi khóm vừa chín tới là được. Sau đó xúc ra dĩa, rải tiêu, ngò lên trên. Đây là món ngon trong bữa cơm gia đình lúc ngày mùa bận rộn.
Và cuối cùng là khóm kho với cá loại cá không vảy, nhiều nhớt. Ngon nhất và hấp dẫn nhất là món khóm kho cá lăng.
Cá lăng là loại cá da trơn, sống nơi tầng đáy môi trường nước ngọt ở đồng bằng sông Cửu Long. Cá thường xuất hiện nhiều trong mùa lũ.
Cá lăng kho khóm
Cá lăng cùng loại với cá chốt nhưng con lớn hơn nhưng nhỏ hơn cá dồ, cá ba sa. Thịt cá lăng thơm, ngon, giàu chất dinh dưỡng. Chế biến món cá lăng kho khóm rất dễ dàng. Trước hết, lựa cá lăng còn tươi, con lớn càng béo, ngon.
Dùng dao bén chặt đuôi, vây, kỳ, móc bỏ hầu và ruột cá nhưng không chặt bỏ phần miệng và râu cá, vì phần này vừa béo vừa dai ngon. Cá có nhiều nhớt và mùi tanh nên dân gian thường dùng giấm chua để tẩy nhớt, xả cá nhiều lần với nước lạnh cho sạch. Cắt cá thành khúc rồi để ráo. Khóm gọt vỏ rửa sạch, chẻ làm tư, bỏ cùi, xắt miếng độ dày vừa phải để sẵn ra dĩa. Bắc chảo lên bếp phi mỡ tỏi cho thơm rồi đổ khóm xắt miếng vào xào nêm gia vị rồi chờ cho khóm rút mới xúc ra dĩa.
Cuối cùng, lại bắc chảo lên bếp, phi hành, tỏi cùng gia vị cùng một ít nước lạnh sao cho ngập xâm xâp với cá là được. Nêm nếm cho vừa ăn rồi thả cá lăng đã làm sạch vào. Chờ cá sôi vài lần, cho khóm vào, và vặn lửa liu riu cho đến khi nước gia vị rút vào, cá nứt da là chín. Khi múc ra dĩa, nhớ thêm ít ngò gai xắt nhuyễn, vài lát ớt, ít tiêu xay là được.
Cá lăng kho khóm thường chấm với rau choại luộc hoặc dưa năn, dưa bồn bồn, ăn cùn chén cơm nóng. Đơn giản là vậy, nhưng mặn mà vị ngọt quê hương, khiến người xa xứ không khỏi bâng khuâng, tưởng nhớ như lời câu hát mà người xưa truyền lại:
"Cá lăng kho khóm anh mê
Xa quê, anh có nhớ quê, anh về" - Ca dao
Theo Út Tẻo (Dân Việt)
[Chế biến] - Cá kho kiểu mới Vẫn là cách kho cá quen thuộc, nay được biến tấu thêm với dưa chuột bao tử muối chua khiến món cá kho trở nên mới lạ, hấp dẫn hơn. Bạn cần chuẩn bị những nguyên liệu sau cho món cá kho này: - 1 con cá lóc khoảng 700g - 3 tép tỏi - 150g dưa chuột bao tử muối chua -...