“Ông giáo” chưa một lần đứng trên bục giảng
Hàng nghìn học sinh ở những vùng quê nghèo khó trên khắp cả nước gọi kiến trúc sư Phạm Đình Quý là “thầy”, dù anh chưa một lần đứng trên bục giảng.
Cơ duyên đến với hành trình thiện nguyện
Sinh năm 1973, kiến trúc sư Phạm Đình Quý là người con sinh ra, lớn lên và lập nghiệp ở mảnh đất Hưng Yên. Trước đây, anh từng là giám đốc của một công ty xây dựng có tiếng, cuộc sống dư dả, đủ đầy, gia đình hạnh phúc cho đến khi công ty gặp biến cố và phá sản.
Anh Quý bảo đó là những ngày tháng tối tăm nhất của cuộc đời, mất hết sự nghiệp, tiền bạc và gia đình cũng không còn trọn vẹn. Cảm giác của một người từng có tất cả rồi mất hết chỉ trong khoảnh khắc khiến anh như bị chôn vùi trong một hố sâu tối tăm, lạnh lẽo… chỉ muốn đến một nơi nào đó thật xa. Rồi trong những chuyến đi xa ấy, anh có cơ duyên đến với hành trình thiện nguyện.
Công trình đầu tiên anh Quý tham gia xây dựng là khu nội trú cho học sinh Trường Tiểu học Trung Lý 1, huyện Mường Lát, Thanh Hóa, năm 2004. Công trình được xây dựng bằng sự hỗ trợ của cộng đồng mà chính anh là cầu nối.
Anh Quý nhớ lại: “Tôi đến đó lúc đầu chỉ với tâm nguyện đi đến một nơi thật xa để có những trải nghiệm cho bản thân, nhưng không ngờ đó là lần đầu tiên tôi có những bài học về cuộc đời, về cho và nhận.
Ở đó, họ rất khổ, có những đứa trẻ nghèo, không đủ cơm để ăn, không đủ áo để mặc và tất nhiên là câu chuyện về một ngôi trường là cả bầu trời ước mơ của rất nhiều đứa trẻ.
Lúc đó trong tâm khảm của một người thất bại, trắng tay, tôi chỉ đặt một câu hỏi, bao nhiêu năm mình sân si với cuộc đời này, mình để gì lại cho cuộc đời. Từ đó thúc đẩy tôi muốn làm một việc gì đó để sau này nếu khi chết đi thì vẫn là người có ích cho những cuộc đời khác ở lại. Và, tôi nghĩ đến chuyện xây trường.
Tôi nghĩ muốn phát triển ở những nơi xa xôi thế này bắt buộc phải đầu tư về giáo dục, đầu tư về con người. Chúng ta có thể đầu tư làm con đường nhưng nếu chỉ có vậy, người dân không có tri thức thì không mang lại giá trị thay đổi.
Chính vì thế, tôi nghĩ nếu các em được học hành trong một ngôi trường tử tế, tiếp nhận được kiến thức xã hội để trưởng thành thì cái cách trở của địa lý, cái nghèo khó của đời sống lúc đó cũng không thể làm chậm sự phát triển của các em được”.
Anh Phạm Đình Quý và học sinh vùng cao. Ảnh: NVCC.
Ngôi trường chính là ánh sáng của tri thức, đối với quan niệm của anh Quý, nếu có tri thức thì sẽ vượt qua đói nghèo, lạc hậu, nhiều đứa trẻ sẽ có tương lai tốt đẹp hơn. Có tri thức thì tương lai các em có thể vẫn gặp quả đồi trọc, vẫn là tư duy nông nghiệp nhưng các em biết trồng cây gì trên quả đồi để phủ xanh, nuôi con gì mang lại kinh tế làm giàu quê hương.
Video đang HOT
“Đầu tư về con người là một quá trình rất dài, nhưng không lo lỗ vốn. Chính tri thức thay đổi con người thì những gì phát triển về con người là số lãi to lớn mà tôi nhận được từ những đứa trẻ, từ những thầy, cô bám bản xa xôi dạy học”, anh Quý trải lòng.
Đi xây trường với số vốn 0 đồng
Sau 7 năm trên hành trình thiện nguyện, đến cuối năm 2020 vừa qua, anh Quý đã kết nối hoàn thành xong 150 trường và điểm trường.
Ngôi trường đầu tiên anh xây dựng bằng số tiền kêu gọi từ bảy người bạn, mỗi người mười triệu đồng. Lúc đấy, cầm 70 triệu với dự toán của một kiến trúc sư anh không thể hoàn thiện được một lớp học theo ý mình. Nhưng anh vẫn quyết tâm quay lại Mường Lát, Thanh Hóa với hi vọng “chỉ xây cho các em một cái sân chơi cũng được, cái gì cũng được miễn là động viên các em đến trường”.
Ấy thế mà ông “Bừa” (nickname của anh Quý) nổi tiếng trên các diễn đàn mạng là một người đi “xin” tiền có duyên và chi tiêu “tiền xin” sòng phẳng.
Anh Quý tâm sự: “Lúc đầu, tôi chỉ đăng lên mạng xã hội để chia sẻ những việc bản thân làm ở Mường Lát và mong muốn những ai đồng cảm trước hoàn cảnh của các em nhỏ thì chung tay xây dựng sân chơi. Được như vậy cũng mừng rồi!
Ấy vậy mà tôi quyên góp được hơn 600 triệu đồng, số tiền vượt quá mong đợi, xây được lớp học, nhà giáo viên và sân chơi.
Số tiền lúc đó dư ra lại thôi thúc tôi tìm thêm một địa điểm để xây tiếp những điểm trường khác. Cứ thế số tiền được gửi đến ngày càng nhiều và dự án về những ngôi trường liên tục được thực hiện”.
Trong chuyến đi lên Bắc Kạn, anh nói với tôi rằng, ở những nơi xa xôi như thế này, trường lớp là ước mơ xa xỉ. Có những thầy cô quyết tâm bám bản, những đứa trẻ có ước mơ cắp sách đến trường, vậy tại sao chúng ta không xây được một ngôi trường để những ước mơ đó được chấp cánh?
Anh bảo: “Bao nhiêu năm sống trên cuộc đời, đây mới là những năm tháng cảm thấy thú vị, đáng sống, đó chính là giá trị của sự cho đi và nhận lại”.
Anh Quý được các em nhỏ trên những nẻo đường đã qua trìu mến, thân thương gọi bằng “thầy”. Người thầy chưa có một đứng trên bục giảng, chưa một lần dạy các em bài toán, câu thơ, nhưng anh chính là cánh tay dìu dắt từng bước các em đến trường, là người đặt những viên gạch nhỏ góp phần dựng xây tương lai cho những đứa trẻ ở chốn quê nghèo.
Những nơi anh qua là những hình ảnh đọng lại sâu sắc, là những nét in đậm của cuộc sống khó khăn, vất vả của bà con nơi đó. Những mảnh đất càng nghèo nàn, càng sâu xa thì dường như tình người, tình đời ở đó càng đượm.
Anh kể với tôi, chuyến đi cuối năm vào mảnh đất Trà Cang, Nam Trà My, Quảng Nam để hoàn thành những ngôi trường ở đó anh nhận quá nhiều sự ủng hộ về vật chất, tinh thần, đặc biệt là nhân dân địa phương nơi anh đến xây trường.
“Ở điểm trường thôn 5, Trà Cang, huyện Nam Trà Mi, để xây một phòng học kiên cố thay thế cho lớp học bị cuốn mất trước đó vì bão, người dân, thầy cô đã phải tăng bo thủ công vài ba viên gạch một đi bộ 5 kilomet mới vào được tới nơi.
Ô tô chuyển đồ dùng vào cách đó 14 kilomet, rồi dùng xe rùa, xe máy chuyển vào gần hơn một chút vì đường xấu. Nhưng chặng đường cuối cùng thì chỉ có thể đi bộ được thôi.
Mỗi đoạn đường khó khăn ấy tôi lại nghĩ, những đứa trẻ ở bản xa hơn, cũng đi bộ vào mùa mưa như thế này, còn vất vả hơn chúng tôi đi xây trường, vậy nên phải quyết tâm vượt qua xây dựng các điểm trường thôn 5, thôn 6 Trà Cang.
Nhiều người dân nơi đây vẫn còn những suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu, nhưng đã có nhiều thanh niên đi học rồi quay trở về xây dựng quê hương, nên tôi lại càng tin tưởng khi xây dựng trường học nơi đây sẽ giúp những đứa trẻ trưởng thành, giúp quê hương phát triển. Chỉ cần nghĩ như thế, những mệt mỏi, khó khăn lại trở thành sức mạnh, kiên trì, bề bỉ của tôi”, anh Quý kể và cho tôi xem bức ảnh chụp cùng cô giáo và những đứa trẻ tóc hoe vàng vì nắng, gầy trơ xương vì đói nhưng ánh mắt trong sáng, vô cùng tuyệt vời ở Trà Cang.
Trên hành trình giúp đỡ trẻ em và dân bản, anh Quý tận mắt nhìn thấy niềm vui, hạnh phúc của những đứa trẻ và cô giáo vùng cao lần đầu được mặc áo khoác mới; những đứa trẻ hức, lạ lẫm vì lần đầu tiên trong đời được ăn bát phở vận chuyển từ Hà Nội lên…
Còn với anh, ngủ ở rừng, uống nước bản, ăn những món ăn nghe lạ hoắc từ tên gọi, có khi cả tháng trở thành người rừng vì đi vào chốn không sóng, không mạng, không điện… được “thầy” Quý gọi tên là “trải nghiệm” mặc dù tuổi của người đàn ông này đã gần năm mươi.
Năm 2018, trong một chương trình tổ chức vì cộng đồng, Phạm Đình Quý được bình chọn là một trong 10 nhân vật truyền cảm hứng vì đã đi khắp đất nước, có nhiều đóng góp vào việc xây dựng được 136 trường và điểm trường cho học sinh nghèo ở những vùng đặc biệt khó khăn. Con số đó đến bây giờ là 150 và vẫn đang còn nhiều hơn nữa.
Tôi bị cuốn vào những câu chuyện của anh trên cả chặng đường dài về cho và nhận trong cuộc đời này. Anh bảo: “Sống là phải biết cho đi, đâu phải chỉ nhận về mình. Tôi có rất nhiều của cải nhờ duyên mà “đi xin” được để giúp nhiều người nhưng ngược lại tôi nợ rất nhiều ân tình trên cuộc đời này. Tôi cứ làm thôi, đến đâu rồi tính tiếp, nhưng khi nằm xuống, thấy mình còn thở thì ngày mai tôi vẫn tiếp tục đi xây những ngôi trường”.
Ngôi trường có 2.000m2 đất cho học sinh trồng hàng tấn rau xanh
Hơn 400 học sinh bán trú cùng nhau trồng hơn 2 tấn rau mỗi học kỳ để cải thiện bữa ăn, lấy tiền gây quỹ lớp.
Nằm cách TP Thanh Hóa khoảng 200km, học sinh Trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) THCS Trung Lý, huyện biên giới Mường Lát (Thanh Hóa) mỗi học kỳ đều tự trồng rau bán cho nhà trường để phục vụ bữa ăn bán trú và lấy tiền mua sắm máy giặt, gây quỹ lớp.
Mỗi học kỳ học sinh Trường PTDTBT THCS Trung Lý, huyện biên giới Mường Lát trồng được hơn 2 tấn rau xanh.
Theo tìm hiểu của PV, mô hình học sinh bán trú trồng rau sạch được trường Trung Lý triển khai năm 2013 từ những mảnh đất trống ven trường và khu đất trống sau trường. Nhà trường đã phân công mỗi lớp trồng một luống rau xanh với đủ các loại rau như cải, đậu, muống... để gây quỹ lớp cũng như cải thiện bữa ăn cho chính các em.
Đang loay hoay chăm sóc rau cùng bạn, em Giàng Thùy Linh (lớp 9A) cho biết: "Việc trồng rau vui lắm ạ! Sau mỗi giờ học trên lớp căng thẳng thì chúng em lại cùng nhau chăm sóc cho những luống rau xanh tốt của lớp mình. Chúng em cũng phân chia công việc cho từng bạn như xới đất, nhổ cỏ, tưới rau".
Thầy Đoàn Văn Sơn, Hiệu trưởng Trường PTDTBT THCS Trung Lý cho hay, toàn trường có 13 lớp học với 486 học sinh chủ yếu là người dân tộc Mông và Thái. Trong đó, có 417 học sinh ở lại bán trú tại trường do khoảng cách từ nhà tới trường xa 10-50km.
"Mô hình trồng rau xanh do nhà trường phối hợp với đoàn, đội phát động vào năm 2013 và giao cho các lớp, giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn học sinh trồng, chăm sóc rau xanh. Sau khi thu hoạch rau xanh được nhà trường thu mua lại phục vụ cho bếp ăn bán trú với giá 10.000 đồng/kg để các lớp lấy quỹ hoạt động", thầy Sơn nói.
Cũng theo thầy Sơn thì toàn trường có khoảng hơn 2.000m2 đất để trồng rau, chủ động cung cấp rau xanh 7 tháng trong một năm học, mỗi học kỳ cho thu hoạch khoảng 2,3 tấn rau xanh.
Chiếc máy giặt được mua bằng tiền quỹ trồng rau, nuôi lợn của học sinh.
Được biết, trước đây nhà trường còn nuôi lợn lấy quỹ mua đồ dùng cho học sinh nhưng từ năm 2019 do ảnh hưởng của bão số 3, chuồng lợn bị sạt lở nên việc chăn nuôi dừng lại.
Việc học sinh trồng rau xanh cải thiện bữa ăn là một mô hình thiết thực, cũng là môn học ngoại khóa rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh bán trú nơi đây.
Vườn rau sạch của học sinh bán trú Các lớp học ở Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Trung Lý, huyện Mường Lát, đều được chia đất trồng rau, cung cấp cho bếp ăn bán trú. Sau giờ học buổi sáng, Giàng Thị Dợ, học sinh lớp 9B, trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Trung Lý, cất vội chiếc cặp vào phòng rồi cùng nhóm bạn đến...