Ở chật, ăn khan, uống hiếm, phá thai…
Cuộc sống ngột ngạt của công nhân trong những phòng trọ chật chội.
Men theo con đường bêtông lổm nhổm đất đá, bụi phủ trắng cây cối hai bên đường, tôi tìm đến làng Đại Đồng (Đông Anh, Hà Nội) – nơi tập trung khá đông công nhân ở trọ. Từ xa, những căn nhà ẩm thấp lấp ló đằng sau những bãi rác ngổn ngang kéo từ lề đường xuống mặt ao…
Từ ở chật, ăn khan, uống hiếm, ngửi mùi độc hại…
Với khoản tiền lương hạn hẹp (khoảng 2-3 triệu đồng/tháng), việc chắt chiu, tính toán trong ăn ở, sinh hoạt là điều cần thiết với nhiều công nhân (CN). Làng Đại Đồng vốn dĩ tập trung nhiều CN ở trọ bởi gần KCN và còn bởi giá cả phòng trọ tương đối ôn hòa. Theo tìm hiểu, phòng trọ tại đây có giá từ 400 – 800 nghìn đồng/tháng/phòng. Phòng trọ hầu hết diện tích không lớn, nhiều dãy trọ đã phủ đầy rêu hoặc mốc meo, song nhiều CN vẫn tự bằng lòng vì một lý do rất đơn giản – tiền thuê rẻ.
Tôi rẽ vào xóm trọ nhỏ sát mép đường, nằm thoi thóp giữa hai con đường làng giao nhau, chỉ vẻn vẹn có 2 phòng. 4 nữ CN vừa làm ca đêm về, mắt ai nấy đều thâm quầng, cái cảm giác “khát ngủ” hiện rõ trên khuôn mặt của từng người.
Bên trong căn nhà ẩm thấp, sát bên là bãi rác bừa bộn, hôi thối, chị Bùi Huấn (Kỳ Anh – Hà Tĩnh) thở than: “Em xem, ở đây có biết bao nhiêu bãi rác tự phát, vì không có bãi rác quy định, người ta sẵn đâu vứt đấy, một người vứt, hai người vứt rồi nhiều người vứt, thế là thành bãi rác to oành. Nhưng mà vì ở đây giá phòng rẻ, sống quen rồi cũng chịu được. Lương CN mà ở phòng đẹp thì tiền kiếm ra khó mà đủ sống”.
Nói rồi chị đi vào đun nước sôi pha mì, bữa sáng của chị lúc nào cũng đơn giản có thế. Chắt chiu từng khoản, tiết kiệm được đồng nào tốt đồng ấy là quan điểm của chị Thành và những chị em khác tại đây. Đó cũng là lý do để họ chấp nhận sống trong cảnh chật chội, hôi thối mà không cần biết tác hại về sau.
Video đang HOT
Đi sâu vào trong ngõ, tìm đến nhà 3 chị em Bích Hà (Tiền Hải-Thái Bình). Hà mở cửa chỉ cho tôi lối vào để lên tầng hai. Nhưng chao ôi, một lối đi hẹp hơn cả hẹp, ước chừng chỉ một người đi cũng va vào hai bên tường. Tôi bước vào căn phòng chừng 8m2, trần nhà thấp lè tè, 3 chị em Hà đã ở đây hơn 1 năm qua. “Phòng rộng nhiều tiền lắm, bọn em ở đây giá phòng thấp. Có như thế mới đủ sống, vì còn phải lo nhiều thứ, trong khi lương thì thấp. Chịu cảnh chật chội quen rồi” – Hà biện bạch.
Thời buổi kinh tế khó khăn, giá cả mọi thứ đắt đỏ, vấn đề ăn uống với CN là câu chuyện phải cân-đong-đo-đếm từng ngày. Theo Hà ra chợ cóc trong làng, lượn một lượt từ đầu đến cuối chợ Hà vẫn chưa mua được gì. Sau một hồi hỏi giá, Hà mới quyết định mua mớ rau muống 5 nghìn đồng (bởi vừa rẻ, vừa được nhiều).
Nhìn lại số tiền trong tay, Hà đắn đo một lúc rồi quyết định mua 3 quả trứng vịt. Bữa tối của ba chị em đơn giản có thế. Hà cho biết: “Tiền kiếm được nếu không biết cách chi tiêu thì không đủ sống, chứ chưa nói gì tới tích lũy. Thường mấy chị em nhịn ăn sáng, trưa ăn ở Cty, tối ăn ở nhà. Nhiều lúc nhịn ăn sáng, đi làm vất, đến trưa đói nhủn người”.
Có những gia đình, hai vợ chồng làm công nhân, hằng tháng chắt góp từng đồng để gửi về cho con ăn học. Điển hình như vợ chồng anh Minh chị Tú (Nghệ An), mỗi ngày ăn gì, uống gì họ đều suy tính kỹ, bởi còn con nhỏ ở quê. Áp lực về kinh tế đang đè nặng trên đôi vai hai vợ chồng trẻ.
Tạt ngang qua khu chế xuất của Cty Canon, từ phía xa tôi đã ngửi thấy một mùi khen khét đến khó chịu. Thế mới biết nỗi khổ của những người công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm vẫn ngày ngày phải hứng chịu.
Ăn uống không đủ chất, lao động nặng nhọc và hơn hết luôn phải hít những mùi độc hại từ nơi làm việc, sức khỏe của CN đang bị đe dọa một cách nghiêm trọng, đó là chưa kể đến tình trạng rác thải hôi thối chất đống đầy đường, bụi đường mù mịt, nguồn nước bẩn… CN đang ngày ngày phải tiếp xúc với bao chất độc hại bao quanh mình, ai dám chắc rằng, những chất độc hại ấy không dần ngấm vào cơ thể của họ.
…đến những day dứt khó nói
Mỗi lần gọi điện về quê, nghe tiếng đứa con nhỏ chưa đầy 1 tuổi khóc ré lên là nước mắt chị Hoa (Thạch Lạc-Thạch Hà – Hà Tĩnh) lại trào ra. Sinh con được 9 tháng, chị Hoa đành phải gửi con ở nhà cho ông bà nội, ra Hà Nội làm CN tại Cty Showa. Nhắc đến con, chị Hoa sụt sùi: “Vì ở nhà nỏ có việc chi làm nên tui phải bỏ con ra đây, thương nó lắm. Mới được có 9 tháng đã phải cai sữa, gửi ông bà nuôi, còn nhỏ nên nó hay khóc đòi mẹ lắm. Mỗi lần gọi điện về là tui nỏ cầm nổi nước mắt, nghe con khóc mẹ cũng khóc theo. Nhiều khi muốn bỏ về với con, nhưng mà rồi nghĩ lại, về thì cả con và mẹ đều chết đói”.
Vì miếng cơm manh áo, vợ chồng anh Khánh, chị Hạnh (Cẩm Vịnh – Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh) cũng phải gửi con ở quê cho ông bà chăm sóc. Hai anh chị cưới nhau cách đây 5 năm, có với nhau được một bé gái, nay đã lên 3. Ở quê, đất ruộng không có, hai vợ chồng khăn gói ra Bắc làm ăn. Con gửi lại cho ông bà, đến nay đã được 2 năm.
Nhắc đến con, chị Hạnh nghẹn ngào: “Gửi con ở nhà cho ông bà nuôi, hai vợ chồng ra ngoài này làm ăn, mỗi năm về một lần. Mẹ con ít được gặp nhau nên mỗi lần về quê, nó hờ hững với tôi lắm. Buổi tối nó không chịu ngủ với bố mẹ, cứ đòi ngủ với ông bà thôi. Mẹ con mà như người dưng. Đôi lúc thấy có lỗi với con quá, nhưng không còn cách nào khác”. Sự giằng xé giữa trách nhiệm làm cha, làm mẹ và nỗi lo kiếm tiền tạo nên áp lực vô cùng lớn đối với những người CN.
Sau khi kết hôn, vợ chồng anh Nguyễn Văn Lương và chị Trần Thị Tuyết (Thái Nguyên) đưa nhau xuống Hà Nội làm việc. Hai người đều làm trong Nhà máy Canon, đến nay đã hơn 1 năm. Thuê một căn phòng trọ nhỏ tại làng Bầu với giá 700 nghìn đồng/phòng, cuộc sống ăn ở, sinh hoạt của đôi vợ chồng trẻ gặp không ít khó khăn.
Cưới nhau gần 2 năm nhưng hai vợ chồng vẫn chưa dám sinh con vì điều kiện kinh tế chưa cho phép. Anh Lương chia sẻ: “Giờ hai vợ chồng còn trẻ, tốt nhất là cứ chịu khó kiếm tiền đã. Sinh con lúc này vất vả cho cả hai bên, nhất là tội cho con”. Nói thì nói vậy, trong thâm tâm họ vẫn luôn ao ước có được giọt máu chung giữa hai người, thỏa lòng mong đợi của các ông bà.
Đó là một trong những lý do mà không ít nữ CN tìm đến giải pháp phá thai. Ngay tại KCN Nam Thăng Long, chuyện công nhân nữ phá thai không hiếm. Chị Hương (CN Cty Canon) cho biết: “Thường chỉ cần thấy ai nghỉ dài ngày là mọi người trong Cty lại xì xào, bán tín bán nghi, nghĩ ngay tới chuyện này. Thực tế, việc phá thai đối với nhiều nữ CN bây giờ không quá ghê gớm như trước, bởi có nhiều lý do dẫn tới họ phải làm như thế, đặc biệt là lý do kinh tế…”.
Theo laodong
"Dị nhân" ở HN hơn 20 năm không ăn cơm
Từ năm 1991 đến nay, ông Nguyễn Văn Sắc ở xóm 3, đội 6, xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, Hà Nội chỉ ăn duy nhất một món là xôi. Việc này khiến cả vùng xôn xao ngạc nhiên, nhưng đối với ông, câu chuyện lạ này đã diễn ra hơn 20 năm nay.
"Thần dược" xôi?
Tò mò, chúng tôi đã tìm về xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín (Hà Nội) để "diện kiến" con người có sở trường kì lạ này. Có lẽ trường hợp của ông Sắc được coi là "độc nhất" thời nay, 20 năm không ăn cơm tẻ mà chỉ ăn xôi.
Hỏi thăm về nhà ông Sắc - "vua" xôi thì hầu như cả vùng không ai không biết đến. "Ôi giời! Người ấy mấy chục năm nay có biết ăn cơm tẻ là gì đâu, chẳng hiểu sao ông ta lại có thể sống được chừng ấy năm mà vẫn khỏe mạnh như thế nữa".
Theo sự chỉ dẫn của người này, hiện ra trước mặt là một ngôi nhà kiêm xưởng mộc lớn, khang trang, ông Sắc với dáng người mảnh khảnh, thân hình gầy guộc lạch cạch bước ra đón khách.
"Thú thật với các anh, tôi "bỏ" cơm tẻ đã 20 năm nay rồi, cuộc sống của tôi không chỉ bình thường mà còn thoải mái, dễ chịu hơn rất nhiều", ông Sắc nói.
Khác với sự tưởng tượng của chúng tôi về con người đặc biệt ấy, rằng ăn xôi để "luyện công" hay vì một chế độ ăn uống nào đó để lập kỷ lục chẳng hạn, nhưng với ông Sắc thì khác, mọi chuyện đến với ông Sắc một cách tình cờ.
Ông Nguyễn Văn Sắc
Chuyện là vào năm 1991, trong lần đi ăn cỗ tại một gia đình trong dòng họ. Bữa ăn hôm đó có rất nhiều món ngon, nhưng món xôi lại được ông nhắm tới đầu tiên. Một phần cũng vì đã lâu không được nếm món xôi đỗ nhìn khá bắt mắt. Sau khi nếm, ông Sắc đã ngấu nghiến cho tới khi hết đĩa xôi. Lúc đó đã no bụng nên không còn ăn được gì nữa. Cũng từ bữa ăn này, khẩu phần ăn trong cuộc đời của ông bắt đầu sang trang.
Ông Sắc kể lại: Sau khi giải ngũ trở về địa phương, tôi đã xây dựng gia đình rồi sinh con. Lúc con cái trưởng thành, cuộc sống gia đình đỡ vất vả hơn thì căn bệnh tiểu đường đeo bám lấy tôi. Dù đã tốn bao nhiêu tiền bạc để chữa trị nhưng bệnh tình không hề thuyên giảm. Cũng do bị bệnh nên chế độ ăn uống của tôi phải kiêng đủ thứ.
Trước đó, tôi vẫn ăn uống bình thường theo chế độ ăn uống trong gia đình. Nhưng căn bệnh tiểu đường không để tôi được yên, sau mỗi bữa ăn đã phải rất vất vả với chứng bụng đầy hơi, sôi cồn cào, khó chịu, dù đã tìm đủ các loại thuốc để chữa cũng không khỏi".
Sau bữa ăn đặc biệt đó với món duy nhất là xôi, như thể một "thần dược" phát huy công hiệu, ông Sắc cảm thấy trong người thoải mái, dễ chịu như vừa chữa khỏi bệnh. Về nhà, khẩu phần ăn của gia đình lại tiếp diễn như trước, nhưng lần này những cơn bụng sôi cồn cào, khó chịu lại tái phát, lúc đó, ông Sắc bắt tay vào bếp, vo gạo để nấu xôi.
Những lần đầu, ông Sắc đã lén lút đồ xôi lên rồi giấu đi, đợi đến bữa cơm mới mang ra khoe với gia đình như một sự tình cờ do "thích ăn thì nấu". Chỉ giấu được vài lần, sau đó ai nấy đều lấy làm lạ vì bữa nào người cha, người ông của mình đều "tình cờ" chỉ ăn xôi. Rồi kể từ đó, bữa nào ông cũng chỉ ăn một món duy nhất là xôi.
Đồ nấu ăn rất đơn sơ, giản dị
Bị coi là người lập dị
Anh Nguyễn Văn Đô, con trai cả, hiện đang sống cùng ông Sắc cho biết: "Ngày nào cũng thấy bố ăn một món duy nhất là xôi, dù gặng hỏi nhưng bố vẫn không nói lý do. Gia đình ai cũng lo lắng vì vốn dĩ "ông cụ" đã bị bệnh, phải kiêng rất nhiều thứ rồi, giờ kiêng thêm cơm nữa thì sống sao nổi". Sau khi đã biết lý do thì ai cũng phản đối, từ đó cuộc sống gia đình bị đảo lộn hoàn toàn, cả nhà không nấu chung nồi, chung bếp như trước nữa. Đồ trong bếp của ông Sắc vẻn vẹn chỉ có một chiếc mâm riêng, một chiếc xoong và một bát đơm xôi, đợi lúc mọi người đi làm hết mới dám vào bếp để khỏi bị nói.
Dù vấp phải sự phản đối quyết liệt, nhưng hàng ngày ông Sắc lại lặng lẽ... đồ xôi. Và đến bữa thì... "việc đã rồi".
Chị Biển, con dâu của ông Sắc cho hay: Thời gian đầu, tôi cũng đau đầu lắm, sợ mình làm gì không vừa lòng bố chồng, hay nấu ăn không hợp khẩu vị nên bố mới làm vậy. Sau đó tôi đã nấu nhiều món, thay đổi khẩu phần liên tục nhưng ông vẫn không động đũa dù chỉ một miếng, mà "trung thành" với món xôi tự nấu của mình.
Theo chị Biển thì mỗi khi gia đình có khách, mọi người đều rất ngại, nhìn hai mâm cùng một bữa với hai khẩu phần ăn khác nhau, sợ mọi người nghĩ trong nhà đang có chuyện lục đục, lúc đó anh Đô phải đứng ra giải thích mới làm khách không phật lòng chuyện này mà hai bố con thường xuyên cãi nhau cũng chỉ vì lo cho sức khỏe của ông cụ. Sau thấy không có tác dụng thì đành phải kệ ông.
Ông Sắc dần dần cảm thấy sợ hẳn bữa cơm thông thường của gia đình, ngao ngán mỗi khi nhìn thấy cơm tẻ. Thói quen "khác người" này khiến ông cảm thấy bất lợi đủ đường, bắt đầu vào cuộc sống thu mình, "khép kín". Ông kể lại: "Hai mươi năm nay, tôi không bao giờ đi ăn cỗ mà phó thác hoàn toàn cho con trai của mình, vì nếu có tham gia cũng chỉ ăn được một món, nếu người ta không làm chẳng lẽ lại bỏ về. Sang chơi nhà người quen cũng vậy, tôi cũng phải rất khéo léo và tế nhị, biết chắc người ta không mời cơm mới dám sang vì rất dễ mất lòng".
Gia đình đã đặt ông Sắc trong tình trạng theo dõi sát sao, nếu thấy giảm sút về sức khỏe thì sẵn sàng dùng biện pháp mạnh để ngăn ông ngay. "Từ khi ông cụ "cai" hẳn cơm tẻ tôi không còn thấy bố phàn nàn về bệnh tật như trước nữa, da dẻ không nhợt nhạt mà hồng hào hơn, mặt mày cũng không cau có như trước nữa nên mọi người đã yên tâm cho ông được "tự do"- anh Đô chia sẻ.
Ông Sắc cho biết: "Từ khi "nghiện" xôi, bệnh tình không còn những cơn đau nhói nữa, sau mỗi bữa ăn tôi thấy thoải mái, dễ chịu hẳn. Có lẽ từ giờ tôi sẽ giữ thói quen này, vì sức khỏe là quan trọng, nếu có ăn cơm tẻ mà đổi lấy tình trạng sức khỏe xấu hơn thì tôi chẳng dại".
Chính vì thói quen ăn xôi mà ông Sắc đều từ chối những đám cưới hay việc công trong làng. Nhiều người tỏ ra oán trách, thậm chí bàn tán về ông sống không hòa đồng, cá nhân. Vậy mà đã thấm thoắt hơn 20 năm, con "người giời" này đã quá quen thuộc với chế độ dinh dưỡng "chẳng giống ai", chừng ấy năm tuy xóm làng đã chấp nhận thói quen oái oăm của ông, nhưng những cái đã mất của ông cũng không nhỏ....
Theo 24h
Nơi "chăm sóc" 15.000 hài nhi xấu số Chốn ấy dành cho thi thể "những con người do vô ý sinh ra". Phần lớn trong số mười lăm ngàn nấm mộ hài nhi ở nghĩa trang TP Pleiku không có tên vì người mẹ không kịp đặt cho chúng. Những người chăm sóc hài nhi xấu số Nghĩa trang TP Pleiku nhìn từ xa như thành phố của người chết với...