Nợ xấu rình rập ngân hàng
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 (NQ 42) về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có hiệu lực (ngày 15/8/2017) đến 31/8/2019, toàn hệ thống đã xử lý được 236.800 tỷ đồng nợ xấu.
Trung bình, xử lý được khoảng 9.600 tỷ đồng/tháng, cao hơn 4.700 tỷ đồng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình giai đoạn 2012 – 2017 trước khi NQ 42 có hiệu lực. Với kết quả này, sau hơn 2 năm NQ 42 có hiệu lực, ước tính đã xử lý được gần 52% số nợ xấu.
Khách hàng giao dịch tại Agribank chi nhánh Hà Nội. Ảnh: Thanh Hải
Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu tồn đọng gần đây đang chững lại do gặp phải những vướng mắc khi triển khai NQ 42. Trong khi nợ xấu mới lại đang phát sinh nhanh hơn. Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ước đến cuối tháng 6/2019 là 1,91%, tăng nhẹ so với mức cuối năm 2018 là 1,89%.
Nợ xấu tăng, các ngân hàng phải trích lập dự phòng và phần trích lập dự phòng rủi ro sẽ tính vào chi phí. Trong những tháng cuối năm, lãi suất khó có khả năng giảm do yếu tố mùa vụ và áp lực cơ cấu lại nguồn vốn của các ngân hàng.
Thực tế, NQ 42 dù đã đưa ra những giải pháp đột phá, nhưng khi triển khai vào thực tiễn đang bộc lộ một số vấn đề. Theo Phó Tổng Giám đốc Agribank Phạm Toàn Vượng, Agribank có hơn 100.000 tỷ đồng nợ xấu cần xử lý theo NQ 42, trong đó có gần 7.000 vụ tranh chấp phát sinh qua tòa án dân sự. Sau 2 năm áp dụng NQ 42, đơn vị mới thực hiện hơn 10 vụ. Bên cạnh đó, ngân hàng gặp khó khăn khi phát sinh thuế trong quá trình thu hồi nợ. “Có nhiều tài sản đảm bảo Agribank đấu giá thành công, nhưng cơ quan thuế và địa phương áp dụng theo cách khác nhau, dẫn đến tình trạng những tài sản thu hồi bị kéo dài thời gian, gây thiệt hại cho người mua do không thể chuyển đổi, sang tên để tiếp tục sử dụng tài sản phục vụ sản xuất, kinh doanh”- ông Vượng cho hay.
Video đang HOT
Phó Tổng Giám đốc Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) Đỗ Giang Nam giải thích: “Khi chuyển nhượng tài sản, các chủ thể tham gia có thể chịu một số loại thuế như thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân. Chẳng hạn, trước đây, DN hạch toán giá vốn tài sản là 100 tỷ đồng, nay bán được 200 tỷ đồng thì phát sinh thu nhập phải chịu thuế. Thực tế, DN lại đang nợ ngân hàng đến 300 tỷ đồng. Do đó, khi xử lý tài sản bảo đảm, cơ quan thuế bắt nộp thuế thu nhập nhưng thực tế DN có còn gì đâu, ngân hàng đấu giá tài sản của DN là để thu hồi nợ”- ông Nam nói. Cũng theo ông Nam, ngay cả khi Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã có hướng dẫn cách xử lý theo NQ 42 nhưng cách hiểu và vận dụng ở các cục thuế địa phương vẫn không thống nhất.
Liên quan đến thủ tục rút gọn tại tòa án, Quyền Chánh Thanh tra cơ quan thanh tra giám sát NHNN Nguyễn Văn Du cho biết, mới ghi nhận 6 hồ sơ được tòa án thụ lý. “Bên cạnh đó, khi bên có nghĩa vụ trả nợ/chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới để đưa vụ án về thủ tục tố tụng thông thường, nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ việc”- ông Du phân tích thêm.
Nợ cũ chưa xong, nợ mới lại đến
Theo các Ngân hàng Thương mại, tuy có tới hơn 52% nợ xấu theo NQ 42 đã được xử lý trong vòng 2 năm, song 48% số nợ xấu còn lại mới là nợ khó xử lý nhất, vì những khoản nợ dễ thu hồi đã được ngân hàng xử lý trước. Số nợ xấu còn lại, là những món “xương xẩu”, khó nhằn nhất. Thực tế, nhiều khối tài sản quá lớn không có người mua do tiềm lực tài chính hạn chế, nhất là khi thị trường mua bán nợ tại Việt Nam chưa hoàn chỉnh nên chưa thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia.
Trong khi nợ cũ chưa xử lý xong, nợ có vấn đề phát sinh thêm vẫn luôn rình rập các ngân hàng. Báo cáo tài chính riêng lẻ quý III/2019 của Ngân hàng MB ghi nhận nợ xấu tại thời điểm cuối kỳ tăng từ 1,22% của đầu kỳ lên 1,35% chủ yếu do nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) tăng gần 390 tỷ đồng lên 1.345 tỷ đồng. Tại Ngân hàng OCB, nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3) tăng 50% và nợ nghi ngờ (nhóm 4) tăng 152%. Do đó, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay của OCB tăng lên mức 2,62% so với mức 2,29% hồi đầu năm. Tại Techcombank, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay khách hàng tăng từ 1,75% lên 1,80%. Một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu ở mức trên 3% bao gồm: ABBank (3,39%); VPBank (3,10%), PGBank (3,07%).
Theo Công ty CP Chứng khoán VNDirect, khác với trước đây, nợ xấu trong quá khứ của các ngân hàng đến từ các khoản cho vay với mục đích đầu cơ và các hoạt động không phải ngành kinh doanh chính (như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản) và cho vay các khoản đầu tư không hiệu quả của DN quốc doanh. Trong khi đó, nợ xấu mới hiện tại lại đến từ các khoản đầu tư của tư nhân và vay tiêu dùng của hộ gia đình và cá nhân… Do đó, nợ xấu sẽ tăng nhiều nhất ở các ngân hàng mở rộng mạnh trong mảng bán lẻ, đặc biệt là tài chính tiêu dùng, do hoạt động này rủi ro cao và tăng chậm hơn ở ngân hàng có tiêu chuẩn cho vay khắt khe hơn và việc mở rộng cho vay bán lẻ thận trọng hơn.
Thảo Nguyên
Theo Kinhtedothi.vn
Nợ xấu cũ chưa xong, lo nợ xấu mới phát sinh
Kết quả xử lý, thu hồi nợ xấu trong những năm qua đạt được nhiều kết quả tích cực, giúp tỷ lệ nợ xấu tại một số ngân hàng giảm nhiều. Tuy nhiên, rủi ro nợ xấu mới phát sinh nhanh trong giai đoạn nền kinh tế đối mặt với những khó khăn và thách thức mới cần phải được lường trước.
Kết quả xử lý, thu hồi nợ xấu trong những năm qua đạt được nhiều kết quả tích cực. Nguồn: internet
Nợ xấu cũ cần xử lý còn lớn
236,8 nghìn tỷ đồng là số nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 được xử lý từ ngày 15/8/2017 (thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực) đến ngày 31/8/2019, đó là thông tin vừa được chia sẻ tại Hội nghị sơ kết 2 năm triển khai Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu. Tính trung bình, toàn hệ thống xử lý được khoảng 9,6 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 4,7 nghìn tỷ đồng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình giai đoạn 2012-2017 trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực.
Kết quả xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 cho thấy, ý thức trả nợ của khách hàng đã được cải thiện một bước quan trọng, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng.
Nhờ kết quả tích cực trên, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn ngành xác định theo Thông tư 02 tiếp tục duy trì ở mức dưới 2% là 1,98%. Nếu tính cả khoản nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) và các khoản nợ có khả năng thành nợ xấu, thì tỷ lệ nợ xấu tới hết tháng 8/2019 là 4,84%, vẫn giảm mạnh so với mức 7,36% năm 2017 và 5,85% năm 2018. Với tỷ lệ 4,84%, quy mô nợ cần xử lý nói trên đến cuối tháng 8/2019 vào khoảng 368,3 nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên, nỗi lo ngại khác là các món nợ xấu mới vẫn đang phát sinh với dấu hiệu nhanh hơn, khiến gánh nặng đè lên nền kinh tế nói chung và hệ thống các ngân hàng nói riêng đang gia tăng.
Theo báo cáo tài chính các ngân hàng, nợ xấu của hầu hết nhà băng đều gia tăng so với đầu năm, dù công tác thu hồi, xử lý nợ xấu vẫn được báo cáo đạt kết quả tích cực trong thời gian qua. Diễn biến này có thể đến từ việc các ngân hàng chủ động chuyển các khoản nợ đã tái cơ cấu trước đây theo Quyết định 780, cũng không loại trừ khả năng buộc phải chuyển nợ xấu từ những khoản cho vay mới gần đây.
Rủi ro phát sinh nợ xấu mới
Thực tế thời gian qua, đã phát sinh nhiều yếu tố có thể gây áp lực gia tăng nợ xấu tại các ngân hàng. Đầu tiên, ở mảng cho vay tiêu dùng đã tăng nóng suốt thời gian qua, nhưng việc thẩm định, phê duyệt dễ dãi kéo chất lượng các khoản vay xuống thấp, thậm chí không ít trường hợp thông tin khách hàng bị lấy cắp để làm giả các hồ sơ vay tiêu dùng. Những vụ việc ngân hàng cấp tín dụng sai đối tượng, quản lý thông tin khách hàng vay vốn không đúng, dẫn đến việc đòi nợ sai đối tượng, gây nhiều phiền hà cho khách hàng, khiến nhà điều hành phải có những cảnh báo nhắc nhở là minh chứng cụ thể.
Các khoản vay đối với dự án BOT, BT cũng đang gặp vấn đề sau thời kỳ tăng trưởng nóng trước đó, khi nhiều dự án phát hiện sai phạm, một số nhà đầu tư có nguồn vốn hạn chế nhưng vẫn "mượn đầu heo nấu cháo", điểm đặt sai vị trí gây bức xúc trong xã hội, tiềm ẩn rủi ro thất thu khi người dân không đồng thuận. Rủi ro từ cho vay BOT, BT quá lớn nên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từ lâu đã sớm cảnh báo hạn chế cho vay ở lĩnh vực này. Dù vậy, những ngân hàng đã đẩy mạnh cho vay ở lĩnh vực này trước đây, hiện không dễ dàng gì để rút vốn hay yêu cầu khách hàng trả nợ trước hạn.
Bên cạnh đó, dù NHNN luôn yêu cầu thắt chặt dòng vốn cho vay vào lĩnh vực bất động sản, triển khai chính sách như nâng hệ số rủi ro đối với dư nợ cho vay bất động sản, nhưng thực tế nhiều ngân hàng vẫn tích cực cho vay trong lĩnh vực này và lách hệ số rủi ro bằng cách hạch toán vào cho vay tiêu dùng. Điều đó khiến NHNN phải dự thảo sửa đổi quy định bằng cách tăng hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay tiêu dùng có kỳ hạn từ ba năm trở lên. Việc thị trường bất động sản nóng sốt cục bộ trong những năm qua, rồi nhanh chóng nguội lạnh khiến không ít nguồn vốn bị mắc kẹt, trong đó không ít là vốn vay từ ngân hàng, dẫn đến rủi ro nợ xấu khi cho vay bất động sản cũng gia tăng.
Với tình hình kinh tế toàn cầu đang đối mặt với bất ổn, suy thoái, chiến tranh thương mại và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, khiến hoạt động của các doanh nghiệp sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng trong thời gian tới. Đây cũng là mối nguy có thể khiến các khoản vay cho doanh nghiệp sẽ thành nợ xấu.
Mới đây, ngày 16/10/2019, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đưa ra cảnh báo trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, một phần do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã làm gia tăng rủi ro đối với vấn đề vay nợ của doanh nghiệp, có thể gieo mầm cho một cuộc khủng hoảng toàn cầu mới.
Một điểm quan trọng nữa là thời gian qua, các ngân hàng đã đẩy mạnh rót vốn vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đang trong giai đoạn cực kỳ sôi động. Điều cần lưu ý, nhiều trái phiếu doanh nghiệp dù lãi suất cao nhưng thiếu tài sản bảo đảm, cũng có thể là các khoản nợ xấu tiềm năng trong tương lai nếu hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn và rơi vào cảnh khốn đốn khi chi phí tài chính gia tăng.
Theo Anh Khoa/doanhnhansaigon.vn
Hơn 900 ngàn tỉ đồng nợ xấu đã được giải quyết Từ 2012 đến hết tháng 8-2019, đã có 968,89 ngàn tỉ đồng nợ xấu được giải quyết. Theo Ngân hàng Nhà nước, tỉ lệ nợ xấu và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu trong hệ thống các tổ chức tín dụng tín đến hết tháng 8-2019 giảm xuống còn 4,84% từ mức 5,85% của năm 2018, 7,36% của năm 2017 và 10,08%...