Những cuộc chiến ngớ ngẩn nhất thế giới (Kỳ 1)
Lịch sử loài người chứng kiến không ít những cuộc chiến tranh vì những lý do ngớ ngẩn và phi lý nhưng để lại hậu quả thực sự tàn khốc.
Trong lịch sử loài người, chúng ta đã chứng kiến hàng ngàn cuộc chiến tranh nổ ra trên khắp thế giới vì nhiều lý do và mục đích khác nhau. Vị tướng nổi tiếng William Tecuseh Sherman của phe Liên bang Miền Bắc trong cuộc nội chiến Mỹ, vị “tướng lĩnh đầu tiên của nền quân sự hiện đại” đã từng thốt lên: “Chiến tranh là địa ngục.”
Quả thật, ngoài những cuộc chiến tranh chính nghĩa vì mục đích cao cả, trong lịch sử loài người không thiếu những cuộc chiến tranh phi lý với những lý do vô cùng ngớ ngẩn và nực cười, nhưng hậu quả mà chúng để lại thì vô cùng khủng khiếp.
Hiện nay, trong bối cảnh thế giới vẫn đang chứng kiến những cuộc chiến tranh đẫm máu nổ ra ở nhiều nơi và nguy cơ nổ ra chiến tranh vẫn còn hiển hiện ở nhiều khu vực, đặc biệt là ở châu Á-Thái Bình Dương, chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc những cuộc chiến tranh phi lý và ngớ ngẩn nhất trong lịch sử loài người, để chúng ta hiểu thêm về bản chất tàn bạo và vô nghĩa của chiến tranh.
1. Cuộc chiến chiếc ghế vàng (1900)
Một cuộc chiến mang lại đau thương cho cả một dân tộc và cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người chỉ vì ý muốn ngông cuồng của một viên Thủ hiến.
Cuộc chiến bùng nổ như thế nào?
Vào cuối thế kỷ 19, người dân vương quốc Ashanti ở bờ biển phía tây châu Phi (nước Ghana hiện nay) thờ phụng một chiếc ghế bằng vàng. Chiếc ghế này được họ coi là một thánh vật, là nơi trú ngụ của quyền lực thủ lĩnh và còn là vật thiêng tượng trưng cho linh hồn của vương quốc Ashanti cũng như linh hồn của tất cả những người đã chết, những người đang sống và cả những người chưa ra đời ở vương quốc này.
Lễ rước chiếc ghế vàng của người Ashanti
Năm 1896, thực dân Anh đổ bộ và xâm chiếm vương quốc này, đánh bại đạo quân tinh nhuệ của vua Ashanti, sau đó đày ông này tới hòn đảo Seychelles xa xôi, khiến người dân Ashanti rơi vào tình trạng “rắn mất đầu”.
Ngài Frederick Hodgson, viên Thủ hiến đầy quyền lực của Anh đã tới vùng đất này để giúp người dân ở đây “khai sáng văn minh” theo cách mà người da trắng luôn muốn làm với người dân các nước thuộc địa.
Đến tháng 3/1900, ông Hodgson đến thủ đô Ashanti và tuyên bố với người dân ở đây rằng vì toàn bộ vương quốc này đều được đặt dưới sự trị vì của Nữ hoàng Anh thế nên ông ta yêu cầu người dân trao lại cho mình chiếc ghế vàng này để ông ta có thể ngồi lên đó.
Những người dân Ashanti có mặt tại đây sững sờ im lặng trước yêu cầu kỳ dị mang tính miệt thị này của vị Thủ hiến đối với truyền thống và di sản của mình, thế nên sau khi bài diễn văn của Hodgson kết thúc, họ đồng loạt lao về nhà và lôi ra bất cứ thứ vũ khí nào mà họ tìm thấy. Và thế là Cuộc chiến Chiếc Ghế Vàng nổ ra.
Điều gì xảy ra tiếp theo?
Video đang HOT
Thủ hiến Hodgson điều một vài đơn vị lính đến canh giữ chiếc ghế vàng này, và khi đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên khi phải hứng chịu đợt tấn công mãnh liệt của một đội quân do bà Yaa Asantewaa (mẹ của vị vua bị lưu đày) chỉ huy.
Tượng đài của bà Yaa Asantewaa tại Ghana ngày nay
Đội hình lính Anh này gần như bị xóa sổ hoàn toàn, những người sống sót tìm mọi cách quay trở về doanh trại ở Kumasi và cố gắng cầm cự trong một pháo đài nhỏ. Bà Yaa Asantewaa đã dẫn đội quân của mình đến bao vây pháo đài này trong suốt 3 tháng rưỡi với lực lượng lên tới 12.000 người. Quân Anh chui rúc trong pháo đài chật hẹp trong hoàn cảnh rất khốn khổ và chờ đợi cứu viện trong tuyệt vọng.
Cuối cùng lực lượng cứu viện gồm vài ngàn quân dưới sự chỉ huy của thiếu tá James Willcocks và một số vũ khí hiện đại đã đến nơi và xuyên thủng vòng vây của quân Ashanti. Cuối cùng họ cũng đánh bại được lực lượng nổi dậy vào ngày 14/7/1900 và giải vây cho pháo đài. Lực lượng bị vây hãm bên trong pháo đài được giải cứu trong tình trạng cạn kiệt thực phẩm và đạn dược.
Lính Anh tấn công các chiến binh Ashanti
Để trả thù cho sự “hỗn xược” này của người Ashanti, trong những tháng tiếp theo của mùa hè năm đó, Willcocks đã ra lệnh tàn sát nhiều ngôi làng trong vùng, san phẳng các khu dân cư và chiếm đoạt đất đai của người Ashanti.
Ai giành thắng lợi trong cuộc chiến này?
Mặc dù người Ashanti bị thua trên chiến trường với con số thương vong lên tới trên 2000 người, nhưng người Ashanti vẫn tuyên bố rằng họ đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến này, bởi một lẽ đơn giản là người Anh đã không bao giờ ngồi lên được chiếc ghế vàng thiêng liêng của họ.
2. Cuộc chiến Cột cờ (1845-1846)
Cuộc chiến tranh quyết liệt giữa quân đội Anh và thổ dân New Zealand, mà mục tiêu của cả cuộc chiến chỉ là một chiếc… cột cờ.
Cuộc chiến nổ ra như thế nào?
Năm 1840, lực lượng viễn chinh của thực dân Anh và các bộ tộc người Maori ở New Zealand ký Hiệp ước Waitangi, và đây được coi là cơ sở pháp lý đầu tiên để người Anh đặt chân đến New Zealand, và ngày nay hiệp ước này vẫn được coi là tài liệu lập nên quốc gia này.
Tuy nhiên các bên tham gia hiệp ước lại có cách hiểu rất khác nhau về văn bản này. Người Maori tin rằng hiệp ước này sẽ đảm bảo cho họ tiếp tục được sở hữu đất đai và gìn giữ các phong tục tập quán cổ xưa của mình. Trong khi đó, người Anh lại cho rằng hiệp ước này đã mở ra cánh cửa để họ có thể ồ ạt di cư đến miền đất mới này. Ngày 21/5/1840, New Zealand chính thức được sáp nhập vào Vương quốc Anh, và sau đó họ chuyển thủ đô đến Auckland, cách thủ phủ cũ Waitangi khoảng 200 km.
Tuy nhiên thủ lĩnh Hone Heke, một trong những người đầu tiên ký Hiệp ước này lại ngày càng tức giận với cách người Anh thực thi những điều mà họ đã ký. Ông phản đối việc dời thủ đô đến Aukland cũng như việc viên Toàn quyền Anh đặt ra những loại thuế phí phi lý tại Kororareka khiến số lượng tàu đánh bắt cá voi ghé thăm vùng đất này sụt giảm thê thảm.
Thị trấn Kororareka, nơi nổ ra Cuộc chiến Cột cờ
Sau khi người Anh di cư ồ ạt vào đây, Kororareka từ một vùng đất thanh bình trở thành một nơi đầy rẫy tệ nạn với các nhà thổ mọc lên như nấm sau mưa, các quán rượu và sòng bạc xuất hiện dày đặc với những kẻ bợm rượu suốt ngày đánh cãi nhau. Người Anh cũng cho dựng lên trong thị trấn này một cột cờ lớn và treo cờ Anh như một biểu tượng cho chủ quyền của mình.
Không thể nhẫn nhịn thêm được nữa, Hone Heke dẫn đầu đội quân thổ dân của mình tràn vào thị trấn và đốn hạ cột cờ này với ngụ ý rằng họ sẽ không bao giờ chấp nhận sự cai trị của người Anh cũng như sự hiện diện của cột cờ ở đó. Và thế là cuộc chiến Cột cờ nổ ra.
Điều gì xảy ra tiếp theo?
Ngay lập tức, Anh điều tàu chiến Sydney với 160 sĩ quan và binh lính thuộc Trung đoàn 99 từ New South Wales ở Úc tới Vịnh Quần đảo. Sau đó Toàn quyền Fitz Roy cùng với một bộ phận của Trung đoàn 96 cũng tới khu vực này trên tàu chiến HMS Hazard. Sau màn phô trương lực lượng này, Toàn quyền Fitz Roy đạt được thỏa thuận với các bộ tộc ở đây là sẽ dựng lại cột cờ của Anh tại Kororareka.
Tuy nhiên Hone Heke không tham gia hội nghị đàm phán này, và ngay sau khi quân Anh rút về Sydney và một cột cờ mới được dựng lên, vị thủ lĩnh này quyết định sẽ tiếp tục thách thức người Anh bằng cách đốn hạ nó một lần nữa.
Hone Heke đích thân đốn hạ cột cờ của người Anh
Tháng 1/1845, Heke đích thân chặt đổ cột cờ Anh ở thị trấn Kororareka. Người Anh tức tối cử một phân đội gồm 30 lính thuộc Trung đoàn 96 tới đây và dựng lại cột cờ và gia cố thêm bằng các đai sắt, đồng thời xây dựng một bốt gác ngay cạnh cột cờ. Thế nhưng ngay sáng hôm sau, họ ngỡ ngàng nhận ra rằng cột cờ này đã bị đốn hạ lần thứ ba. Toàn quyền Fitz Roy lập tức cử quân tăng viện đến để bảo vệ cột cờ này.
Lực lượng tăng viện làm việc cật lực để xây dựng một tòa nhà kiên cố bên cạnh làm chốt bảo vệ cho lực lượng gồm 20 lính canh. Sau đó họ mua một chiếc cột buồm của một thuyền buôn trong cảng và dựng lên cột cờ thứ tư. Một lực lượng hùng hậu gồm 200 lính được huy động để bảo vệ cột cờ mới này.
Ở Anh, Hạ viện đã quyết định rằng Heke và các chiến binh của ông ta không được quyền đốn hạ cột cờ và phải ở yên trong lãnh thổ của họ, bởi vậy hành động của vị thủ lĩnh này cần phải bị trừng phạt. Khi các nhà truyền giáo thông báo điều này với Heke, ông không hề tỏ ra quan tâm và tiếp tục vạch ra một kế hoạch khác.
Ngày 11/3/1845, khoảng 600 chiến binh Maori trang bị súng trường, súng hai nòng và rìu tấn công vào thị trấn Kororareka. Các chiến binh của Hone Heke đã tấn công trạm gác, giết sạch lính canh và đốn hạ cột cờ này lần thứ tư. Sau đó họ đốt gần như toàn bộ nhà cửa trong thị trấn này, khiến cư dân thị trấn hốt hoảng sơ tán xuống tàu Hazard đang neo đậu trong cảng.
Sau vụ việc chấn động này, chính quyền thực dân hối hả điều động binh sĩ từ 3 trung đoàn cùng nhiều tàu chiến trang bị đại bác và bắn đầu bắn phá các làng mạc của thổ dân ở Vịnh Quần đảo. Các chiến binh thổ dân cố thủ trong các chiến lũy bằng gỗ và kiên cường chống trả các cuộc tấn công của quân Anh.
Ai giành thắng lợi trong cuộc chiến này?
Cuộc chiến đẫm máu này kéo dài suốt 10 tháng trời với những cuộc giao tranh quyết liệt giữa các chiến binh của Heke và lực lượng quân đội thực dân Anh. Quân Anh tìm mọi cách để dập tắt cuộc nổi loạn của Heke, tuy nhiên chiến sự vẫn giằng co và không thể phân định được thắng thua. Thiệt hại về người của quân Anh là 82 lính thiệt mạng và 164 lính bị thương, trong khi Heke chỉ mất 60 chiến binh và 80 người khác bị thương.
Đến đầu năm 1846, hai bên nhất trí ngừng bắn và chính thức chấm dứt Cuộc chiến Cột cờ. Sau cuộc chiến này, mặc dù người Anh vẫn kiểm soát phần lớn lãnh thổ ở New Zealand, song họ không bao giờ dám dựng bất cứ một cột cờ nào khác ở khu vực này.
Theo Khampha
Bắt tay xây dựng hệ thống "Chiến binh tương lai" siêu hạng
Theo môt thoa thuân vưa đươc công bô, Israel sẽ hợp tác vơi Ân Đô trong viêc sản xuất cac hê thông vu khi va trang bi công nghệ cao cho binh lính Ấn Độ, môt thi trương vơi tông gia tri khoang 3 tỷ USD.
Theo đo, Israel sẽ hợp tac với Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Quốc phòng Ấn Độ (DRDO) để sản xuất một loạt hệ thống gôm chi huy và kiểm soát, quản lý chiến trường, cac hê thông cảm biến và vũ khí cho Ân Đô đê trang bi cho binh linh.
Một quan chức Luc quân Ấn Độ cho biết, Bô trang phuc Binh linh luc quân tương lai cua Ấn Độ, con đươc goi la chương trinh (F-INSAS) "nhằm tân dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao khả năng của tưng binh lính". F-INSAS "đươc phat triên dựa trên những bài học từ các cuộc xung đột trên toàn thế giới và dự định sẽ biên binh linh Ấn Độ trơ thanh một cỗ máy chiến đấu đôc lâp", quan chức này cho biêt.
DRDO và Israel đã đồng ý hơp tac phát triển cac hê thông chi huy và kiểm soát (C2) di động cho binh lính Ấn Độ. Hệ thống nay sẽ bao gôm một máy tính mã hóa và một màn hình có thể vân hanh trong điêu kiên thời tiết khắc nghiệt của Ấn Độ. Hệ thống sẽ được kết nối với hệ thống quản lý chiến trường cua Luc quân Ấn Độ, một dự án tac chiến mạng lưới trung tâm đang được phát triển, môt nguôn tin Luc quân Ấn Độ khac cho biết.
Mô hình "Chiến binh tương lai" do Israel - Ấn Độ hợp tác chế tạo
Ngoài ra, DRDO se hợp tác với Israel đê cung phát triển môt hệ thống quan sat di động hiên đai cho lính bộ binh Ân Đô va sẽ vân hanh thông qua một cảm biến tần số vô tuyến, cho phép một binh lính duy trì ở môt khoảng cách nhât đinh trong khi vân quan sát và ghi hinh đươc một mục tiêu.
DRDO cũng đã đệ trình một đề xuất lên Bộ Quốc phòng Ấn Độ để phát triển một mang lươi vô tuyên ca nhân hiên đai có thể tích hợp tin hiêu thoại; cac ưng dung chi huy, kiểm soát, thông tin liên lac và tinh bao; và tín hiệu GPS. Hệ thống này sẽ được kết nối với cac mang lươi vô tuyến tầm xa để đam bao co thê hoạt động ơ môt pham vi chưa từng có. Hệ thống này sẽ được phát triển với sự giúp đỡ của Israel.
Để đáp ứng nhu cầu cua Luc quân, DRDO cũng đang phát triển một hệ thống vũ khí cá nhân nhiêu cơ nong và một loai lựu đạn phat nổ trên không.
Nhưng trang thiết bị khác se được mua sắm bao gồm tên lửa điều khiển chông tăng hiên đai (ATGM), xe boc thep chống đạn, súng chống trang bi đôi phương, súng cac bin thế hệ mới, radar giám sát chiên đâu, kinh ngăm nhiệt cho bê phóng ATGM, cac hê thông cảm biến mặt đất, hệ thống thông tin liên lạc an toan, vu khi dẫn đường chính xác và thiêt bi laser đo khoang cach.
Theo ANTD
Những bức ảnh đắt giá trong lịch sử thế giới Bức ảnh đầu tiên chụp thành phố quyến rũ Machu Pichu, toàn cảnh Nagasaki sau khi bị ném bom nguyên tử...là những tấm hình giá trị trong lịch sử thế giới. Ảnh đen trắng chụp thác nước Niagara ở Bắc Mỹ từ năm 1901. Tấm ảnh này được cho là tấm hình cuối cùng chụp con tàu RMS Titanic trước khi nó gặp...