“NHNN cần rất thận trọng với việc điều tiết cung tiề.n và tín dụng trong thời gian tới”
Đây là cảnh báo của Nhóm nghiên cứu Kinh tế vĩ mô của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR). Nhóm cũng đưa ra cảnh báo về những thách thức mà kinh tế Việt Nam phải đối mặt, trong đó cảnh báo tăng trưởng phụ thuộc quá nhiều vào DN FDI và cảnh báo lạm phát năm 2019 rất đáng chú ý.
Theo các chuyên gia kinh tế, tăng trưởng năm 2018 đạt mức kỳ vọng, nhưng sẽ không ít thách thức trong năm 2019 (Ảnh minh họa)
Tăng trưởng phụ thuộc quá nhiều vào DN FDI
Theo nhóm nghiên cứu Kinh tế vĩ mô của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), với mức tăng trưởng tích cực 6,88% của Quý 3.2018, mục tiêu tăng trưởng 6,5-6,7% của năm 2018 do Quốc hội đề ra hầu như chắc chắn sẽ thực hiện được. Nhiều khả năng kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng hơn 6,8% trong năm nay.
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2018 tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, ngành được coi là động lực chính của tăng trưởng là công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục tăng trưởng cao (12,9%). Tuy nhiên, giá trị gia tăng tạo ra trong ngành này chủ yếu tới từ khu vực FDI. Điều này cho thấy sự phụ thuộc ngày càng nhiều của tăng trưởng kinh tế Việt Nam vào khu vực vốn đầu tư nước ngoài.
Lạm phát quý 3.2018 tuy không còn tăng cao như quý trước nhưng vẫn giữ ở mức cao, chủ yếu đến từ việc giá thực phẩm tiếp tục phục hồi mạnh và sự điều chỉnh tăng giá xăng dầu liên tục.
Video đang HOT
Phải nỗ lực mới kiểm soát được lạm phát năm 2019
Mặc dù lạm phát trong năm 2018 được đán.h giá là vẫn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng lạm phát trong năm 2019 sẽ ở mức đáng lo ngại nếu như giá nhiên liệu thế giới tiếp tục ở mức cao đồng thời Việt Nam áp kịch trần thuế môi trường đối với xăng dầu (từ 3.000 lên 4.000 đồng/lít) kể từ 1.1.2019.
Việc nâng kịch trần thuế bảo vệ môi trường lên xăng dầu vào đầu năm sau sẽ tạo ra rủi ro lạm phát. Mức mục tiêu 4% như những năm vừa qua là khó có thể đạt được trong bối cảnh bất lợi như vậy.
Những tính toán sơ bộ của VEPR cho thấy NHNN cần rất thận trọng với việc điều tiết cung tiề.n và tín dụng trong thời gian tới nếu không muốn lạm phát vượt khỏi kiểm soát.
Đồng USD ngày càng mạnh lên khi Fed liên tục nâng lãi suất, khiến cho tỉ giá VND/USD sẽ tiếp tục có những biến động tương đối mạnh như thời gian qua. Việc tiếp tục sử dụng dự trữ ngoại hối hoặc nâng lãi suất để ổn định giá trị đồng VND trong ngắn hạn đều có thể dẫn tới những rủi ro cho nền kinh tế.
Tiếp đó, việc tăng lãi suất sẽ dẫn tới những hệ lụy cho DN trong năm 2019 và 2020. Vì vậy, việc chủ động giảm giá VND một cách khéo léo giữa mức mất giá của CNY so với USD là cần thiết để Việt Nam thích ứng trong cuộc chiến tranh thương mại.
Cũng theo VEPR, Việt Nam cần nhanh chóng cải cách chuyển đổi thể chế theo hướng tạo lập nền kinh tế thị trường đầy đủ để tránh những đối xử bất lợi theo cách Mỹ đang muốn tạo ra tiề.n lệ với Trung Quốc.
Về mặt vĩ mô, Việt Nam cần tranh thủ nỗ lực tạo thêm dự địa chính sách để tăng sức chịu đựng trước những rủi ro sắp tới từ môi trường toàn cầu. Đó là việc tiếp tục giảm thâm hụt ngân sách, tăng thặng dư thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh và thủ tục hành chính, sắp xếp lại bộ máy nhà nước và chống tham nhũng, v.v…
Theo laodong.vn
Chiến lược ngành Ngân hàng: Những tín hiệu tích cực
Với cách điều hành chính sách khá trôi chảy của NHNN như hiện nay, có thể nhiều mục tiêu trong chiến lược Ngành sẽ về đích sớm hơn so với dự kiến ban đầu.
Theo Quyết định 986/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, một trong những nhiệm vụ trọng tâm là NHNN phải tăng tính độc lập, chủ động và trách nhiệm giải trình.
Trao đổi với phóng viên, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiề.n tệ quốc gia TS. Võ Trí Thành cho rằng khi đã trở thành chiến lược của Ngành thì lộ trình thực hiện sẽ được đẩy nhanh hơn.
Ông có thể cho biết, vì sao cần thiết phải đưa mục tiêu trên vào trong chiến lược Ngành?
Nói lại một chút, thực ra vấn đề nâng cao tính tự chủ, chủ động trong điều hành chính sách của NHNN dù không phải là tất cả nhưng là một trong những vấn đề quan trọng nhất khi bàn về tính độc lập của NHTW. Có mấy lý do cơ bản nhất minh chứng vì sao NHTW cần có vị thế tính độc lập rất cao.
Thứ nhất, dù không phải tất cả nhưng rất nhiều nghiên cứu chỉ ra tính độc lập là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo thực hiện được mục tiêu cơ bản nhất của chính sách tiề.n tệ (CSTT). Đó là lạm phát tương đối thấp và ổn định, rộng ra là ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ hai, trong giai đoạn khó khăn, khủng hoảng thì sự chủ động là nhân tố đảm bảo tạo được khả năng linh hoạt hơn cho CSTT. Mà sự linh hoạt của CSTT là một yếu tố quan trọng để giảm thiểu những tác động bất lợi của các cú sốc từ bên ngoài có thể gây ra khó khăn hay khủng hoảng cho nền kinh tế, tạo khả năng chống chịu nhờ linh hoạt. Nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu hơn thì đây là yếu tố giúp tăng khả năng chống chịu bất định của thế giới.
Có ý kiến cho rằng, cần chuyển sang điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu để nâng cao hiệu quả của CSTT? Quan điểm của ông thế nào về vấn đề này?
Đúng vậy. Một vấn đề quan trọng nữa là muốn tăng tính độc lập, chủ động cho NHNN thì nên chuyển sang điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu (LPMT). Đối với khung khổ điều hành CSTT theo LPMT, nếu được xây dựng và vận hành đầy đủ, sẽ có không ít thuận lợi. Niềm tin của các thành viên thị trường đối với chính sách, vốn là một yếu tố có tính nền tảng chắc chắn sẽ tăng.
Thứ nữa, do mục tiêu ưu tiên được xác định rõ ràng và trong một khung khổ rõ ràng hơn, NHTW sẽ chỉ phải tập trung vào nhóm nhiệm vụ, giải pháp trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến các mục tiêu này. Chính sách khác cũng dần thích ứng với công tác điều hành CSTT theo LPMT, tránh gây áp lực đối với NHTW. Thực tế thời gian tới, NHNN đã thực hiện khá tốt hướng đi này khi cố gắng hài hòa các mục tiêu nhưng đặt trọng tâm và triệt để hơn vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc điều hành CSTT theo LPMT có trở nên nhẹ nhàng hơn so với trước kia không, thưa ông?
Tôi nghĩ rằng, mục tiêu này không dễ thực hiện được. Vì với nền kinh tế đang phát triển, thực hiện kiểm soát lạm phát theo mục tiêu có thể bị cản trở do các nhóm chính sách khác muốn tăng ưu tiên cho các mục tiêu khác, chẳng hạn như tăng trưởng kinh tế cao... dây nọ giằng dây kia như vậy là những đòi hỏi áp lực đối với cơ quan này.
Việc áp dụng khuôn khổ CSTT theo LPMT, với định hướng ổn định giá cả đều đi kèm với mức tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Mức tăng trưởng kinh tế thấp chủ yếu do tổng cầu được kiềm chế. Ngoài ra còn nhiều khía cạnh có lẽ Việt Nam khó cải thiện hơn trong 5 năm tới chẳng hạn như giảm độ mở thương mại; tăng mức vốn hóa của thị trường trái phiếu công ty. Việt Nam còn phải nỗ lực rất nhiều mới đáp ứng được các điều kiện này. Điều quan trọng trong thời gian tới là nâng cao năng lực thể chế và năng lực điều hành cho NHNN.
Bên cạnh đó, sắp tới thị trường tài chính - ngân hàng sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề từ những chuyện tiề.n điện tử, mở cửa tài chính, tự do hóa tài khoản vốn mạnh hơn, cú sốc bên ngoài nhiều và tính bất định cao hơn... Qua đó đòi hỏi những giải pháp dài hơi hơn, vừa đảm bảo sự minh bạch hóa cũng như giữ vai trò chốt chặn quan trọng trong giám sát hệ thống tài chính hoạt động an toàn, lành mạnh.
Dẫu còn nhiều việc phải làm trước mắt, nhưng tôi cho rằng, trong bộn bề công việc, NHNN đã đưa ra chiến lược Ngành khá đầy đủ, toàn diện cả trước mắt cũng như dài hạn là tín hiệu tích cực. Với cách điều hành chính sách khá trôi chảy của NHNN như hiện nay, có thể nhiều mục tiêu trong chiến lược Ngành sẽ về đích sớm hơn so với dự kiến ban đầu.
Xin cảm ơn ông!
Theo TBNH
Công ty chứng khoán nhận định thị trường ngày 10/8 Phiên điều chỉnh hôm qua không làm xu hướng tăng ngắn hạn của thị trường thay đổi: chỉ số VN-Index vẫn nằm trên đường trung bình 50 ngày và trên đường trendline nối 2 đỉnh ngắn hạn. Chứng khoán BSC: Phiên 10/8 sẽ là một phiên hồi phục Chỉ số VN-Index dao động mạnh và giảm 2.77 điểm trong phiên giao dịch hôm...